Hiến Pháp

[Hiến Pháp][bsummary]

Ngày lễ

[Ngày lễ][bigposts]

Bài tập

[Bài tập][twocolumns]

ĐỀ CƯƠNG SƠ BỘ: LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM

ĐỀ CƯƠNG SƠ BỘ: LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT VIỆT NAM


 1. Điều kiện ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc.
2. Những điểm đặc thù trong quá trình ra đời nhà nước Văn Lang – Âu Lạc.
3. Những di tồn của thời kì dựng nước đối với quá trình xây dựng và phát triển của nhà nước và pháp luật Việt Nam trong tiến trình lịch sử.
4. Các giai đoạn phát triển của chính quyền đô hộ phong kiến Trung Hoa ở Âu Lạc.
5. Nguồn và nội dung của pháp luật thời Bắc thuộc.
6. Đặc điểm của nhà nước và pháp luật Việt Nam thời Bắc thuộc.
7. Hệ quả của thời Bắc thuộc đối với quá trình xây dựng và phát triển của nhà nước và pháp luật phong kiến Việt Nam giai đoạn độc lập tự chủ.
8. Những tư tưởng truyền thống và tư tưởng chính trị - pháp lí cơ bản của nhà nước và pháp luật phong kiến Việt Nam.
9. Địa vị, quyền lực của vua trong nhà nước phong kiến Việt Nam.
10. Bộ máy Nhà nước quân chủ quý tộc thời Lí – Trần.
11. Bộ máy Nhà nước quân chủ quan liêu chuyên chế thời Lê Thánh Tông và Minh Mệnh.
12. Bộ máy Nhà nước lưỡng đầu thời Lê – Trịnh.
13. Bản chất của nhà nước phong kiến Việt Nam.
14. Yếu tố Trung Hoa và yếu tố Đại Việt trong nhà nước phong kiến Việt Nam.
15. Thành tựu lập pháp của trong nhà nước phong kiến Việt Nam.
16. Hệ thống hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
17. Chế độ hôn nhân trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
18. Chế độ gia đình trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
19. Chế độ thừa kế trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
20. Chế định hợp đồng trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
21. Đặc điểm pháp luật tố tụng phong kiến Việt Nam.
22. Đặc điểm pháp luật phong kiến Việt Nam.
23. Yếu tố Trung Hoa và yếu tố Đại Việt trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
24. Đặc điểm của chính quyền và pháp luật Việt Nam thời Pháp thuộc.




Câu 2: Đặc thù trong quá trình ra đời nhà nước của người Việt cổ.
Có 3 điểm đặc thù:
1.Nhà nước ra đời trong trạng thái phân hóa xã hội chưa tới mức độ sâu sắc như những nước khác. Nói cách khác, nhà nước ra đời sớm, sớm cả về mặt thời gian và không gian là do 2 yếu tố tự vệ và trị thủy-thủy lợi thúc đẩy .
   -Cuối thời đại Hùng Vương, dân cư tràn xuống chinh phục các vùng đồng bằng châu thổ của các con sông lớn và phát triển nông nghiệp trồng lúa nước nên công cuộc trị thủy-thủy lợi giữ vai trò đặc biệt quan trọng.
    -Vị trí địa lí của nước ta nằm trên đầu mối của những luồng giao thông tự nhiên nên yếu tố tự vệ chống lại các thế lực đe dọa từ bên ngoài ngày càng trở nên bức thiết.
    -Vai trò thúc đẩy của tự vệ và trị thủy-thủy lợi được thể hiện cụ thể ở 2 mặt sau:
         +Cơ cấu tổ chức trong chế độ công xã nguyên thủy không thể đảm đương nổi công việc lớn lao trị thủy-thủy lợi và tự vệ mà đòi hỏi phải có 1 loại cơ cấu tổ chức mới khác hẳn, đó là nhà nước. Bởi vì nhà nước có những ưu thế cơ bản hơn hẳn tổ chức công xã nguyên thủy: Nhà nước là cơ cấu tổ chức rộng lớn bao trùm toàn xã hội và chặt chẽ nhất, nhà nước có biện pháp đặc trưng là cưỡng chế, có phương tiện tổ chức và quản lí đặc trưng là pháp luật. Vì vậy nhà nước có khả năng huy động lực lượng lớn sức người sức của và tổ chức chỉ đạo 1 cách có hiệu quả công cuộc đấu tranh để tự vệ , công cuộc trị thủy-thủy lợi.
        +Trên con đường hình thành nhà nước, các thủ lĩnh của các cộng đồng dân cư lợi dụng địa vị, chức năng của mình để chiếm đoạt 1 phần của cải do các thành viên đóng góp làm việc công ích thành tài sản riêng, nên việc huy động sức người sức của tổ chức chỉ đạo đấu tranh tự vệ, trị thủy- thủy lợi trở thành cơ hội lớn thuận lợi cho các thủ lĩnh chiếm đoạt tài sản công nâng cao địa vị, quyền hạn, qua đó cũng thôi thúc sự ra đời sớm của nhà nước.
2.Quá trình phân hóa xã hội và hình thành nhà nước diễn ra rất chậm chạp, kéo dài hàng ngàn năm. Nguyên nhân sâu xa và cơ bản nhất chính là chưa có chế độ tư hữu về ruộng đất.
3. Tổ chức nhà nước còn giản đơn, hình thức pháp luật còn sơ khai. Nhà nước và pháp luật còn bảo lưu nhiều tàn dư của chế độ công xã nguyên thủy.
Theo truyền thuyết dân gian và sử sách cổ, đứng đầu nhà nước Văn Lang là Hùng Vương. Nước Văn Lang được chia làm 15 bộ, đứng đầu mỗi bộ là lạc tướng, dưới đó là bồ chính đứng đầu công xã nông thôn. Các danh hiệu này đã phản ánh tiến trình các quý tộc thị tộc chuyển hóa thành các quan chức nhà nước, chức năng xã hội được chuyển hóa thành quyền lực nhà nước.
  Đến thời Âu Lạc thể chế nhà nước hiện hình rõ nét, quyền uy của vua được tăng cường. Trong triều An Dương Vương, giúp việc cho vua vẫn có lạc hầu(tướng văn hoặc tướng võ) thay mặt vua giải quyết công việ trong nước. Lạc tướng đứng đầu bộ, cai quản 1 đơn vị hành chính địa phương. Bồ chính là người đứng đầu công xã nông thôn.
   Pháp luật ra đời từ khi nhà nước xuất hiện. Qua sự phản ánh gián tiếp của truyền thuyết dân gian và sử sách cổ có thể đưa ra giả thuyết nhà nước Văn Lang Âu Lạc có những nguồn gốc và hình thức pháp luật sau:
+tập quán pháp:giữ vai trò chủ đạo và phổ biến nhất. Đó là 1 số tập quán vốn có từ thời nguyên thủy điều chỉnh nhiều lĩnh vực quan hệ xã hội: quan hệ sở hữu, chiếm hữu, sử dụng ruộng đất, quan hệ về trật tự an toàn xã hội…
+ pháp luật khẩu truyền: đó là ý chí của người thống trị đối với xã hội. Hình thức pháp luật khẩu truyền thường được dùng để giải quyết những vụ việc cụ thể hoặc đột xuất như thăng quan bãi chức, xử tội…
Câu 3: Những di tồn của thời kỳ dựng nước đến quá trình phát triển của nhà nước và pháp luật phong kiến Việt Nam
Chính những điều kiện về kinh tế, dân cư, thể chế nhà nước đã dẫn đến sự di tồn
1.      Nhà nước:
-          Tính giai cấp chưa rõ => tính dân tộc – xã hội chưa cao
-          Chức năng: Trị thủy, chống giặc ngoại xâm
-          Tự quản: công xã nông thôn
-          Cấu trúc nhà nước tập quyền
-          Tâm lý pháp luật, tâm lý quyền lực nhà nước: luôn hướng tới cải thiện tư cách của người cầm quyền
2.      Pháp luật:
-          Nguồn: tập quán, pháp lệnh, khẩu lệnh
-          Tôn trọng tập quán
-          Chưa có pháp luật thành văn
 Câu 4: Những hệ quả của thời kỳ Bắc thuộc đến quá trình phát triển của nhà nước và pháp luật phong kiến Việt Nam.
Sau khi Triệu Đà đánh bại của An Dương Vương năm 179 trc.CN, nước ta rơi vào thời kỳ đen tối nhất trong lịch sử-thời kỳ Bắc thuộc. Đến tận năm 938, Ngô Quyền đánh tan quân Nam Hán trên sông Bạch Đằng, xác lập nền độc lập dân tộc, chấm dứt hơn 10 thế kỷ đô hộ của các triều đại phong kiến Trung Hoa. Trong suốt hơn 10 thế kỷ đô hộ nước ta, thời kỳ này đã để lại những hệ quả của nó đối với cả nhà nước và pháp luật của nước ta thời kỳ độc lập.

1. Hệ quả đối với nhà nước

a. Kinh tế
- Trong thời kỳ Hùng Vương, lực lượng sản xuất kém phát triển, công cụ lao động còn sơ khai, nền kinh tế chủ yếu trồng lúa nước, đời sống kinh tế chưa phát triển , vẫn còn những tàn dư còn sót lại của chế độ công xã thị tộc. Hình thức sở hữu: công hữu đối với TLSX.
- Thời kỳ Bắc thuộc đã áp đặt quan hệ sản xuất phong kiến vào Âu Lạc, tức là đã áp đặt chế độ sở hữu tư nhân. Tuy nhiên QHSX PK vẫn chưa phát triển vì nó không phù hợp với trình độ của LLSX nước ta thời bấy giờ.
Do vậy, trong xã hội tồn tại song song 2 phương thức sản xuất – PTSX PK và PTSX cổ truyền đòng vai trò chủ đạo. → xuất hiện mầm mỗng PTSX PK → cơ sở xây dựng nền kinh tế nông nghiệp PK sau này.

b. Xã hội
- Mầm mống sản xuất phong kiến : bộ phận, tầng lớp có tiềm năng kinh tế phát triển : cửu tộc, lệnh tộc, hào trưởng. So với thời kỳ Hùng Vương, các giai cấp đã hình thành : g/c thống trị và g/c bị trị → LLSX cho nhà nước độc lập dân tộc đã hình thành.
- Hạn chế : tầng lớp Cựu tộc, lệnh tộc đã PK hóa, họ có uy tín và đóng góp lớn cho phong trào dân tộc nhưng nó cũng ẩn chứa những hiểm hoak → mầm mống của tình trạng cát cứ “loạn 12 sứ quân” sau này.

c. Bộ máy nhà nước
Trong hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc đã xây dựng một chính quyền đô hộ theo mô hình phong kiến phương Bắc nhưng chỉ dừng lại ở cấp địa phương → cơ sở g/c thống trị thời kỳ độc lập sau này học tập, tiếp thu, kế thừa xây dựng bộ máy nhà nước → mô hình tính chất Pk vượt trội trên nền tảng KT là mầm mống PK
- Chính quyền PK phương Bắc chưa thể can thiệp vào chính quyền cơ sở trong thực tế vì :
- + PKPB sử dụng phương thức “ Dùng người Việt để trị người Việt”
+ Nhân dân ta đã đấu tranh chống đồng hóa trong suốt thời kỳ này. Yếu tố tự quản, co cụm, chống đồng hóa của các làng xã – Do vậy, sau này khi muốn can thiệp vào địa phương rất khó buộc NNPKVN thời kỳ độc lập phải trao “yếu tố tự trị” cho các làng xã nên việc áp đặt ý chí của nhà nước đối với làng xã rất hạn chế - c/s dung hòa nhà nước với làng xã.
d. Chế độ quan lại
Chính quyền có thể thay đổi tên gọi nhưng đều xây dựng trên nguyên tắc “Tôn quân quyền” và nguyên tắc “chính danh” → đó là lý do giải thích tại sao mà bộ máy NNPK VN thời kỳ độc lập lại sớm hoàn thiện (TK XI – nhà Lê) hơn so với việc hoàn thiện bộ máy NNPK Trung Hoa (đến tận thời nhà Đường).
2. Hệ quả đối với pháp luật
Duy trì 2 nguồn luật
- Luật Việt : giai đoạn đầu nhà Triệu là nhà nước cát cứ của Tần, Hạ cho đến Triệu Đà đã dùng phương thức “ Dùng người Việt để trị người Việt” → các nhà nước PKPB đã sử dụng luật Việt để cai trị
- Luật Hán : nhà Hán đã thực hiện chính sách đồng hóa, thực hiện việc dùng luật Hán với người dân Âu Lạc đã khiến nhân dân ta oán giận, chống đối lại, nảy sinh tâm lý pháp luật “trọng lệ hơn trọng luật”, bàng quang với luật Hán, nhưng cũng nhờ đó đã xuất hiện 1 hình thức pháp luật trước đây chưa từng có là VBQP PL
→ Các nhà nước PKVN thời kỳ độc lập sau này đã có sự tiếp thu, chon lọc những ưu điểm của các nhà nước PKPB.
* Ưu điểm :
- Luật Hán là luật thành văn nên nó đã đưa vào nước ta kỹ thuật xây dựng pháp luật thành văn (VBQP PL). Đây là sự tiếp thu có hcọn lọc và sáng tạo được sử dụng ở các nhà nước PKVN sau này. Đó là hình thức các văn bản luật như : Bộ luật, lệnh, chiếu, chỉ.
- Thừa nhận luật Việt là các tập quán điều chỉnh những vấn đề nảy sinh trong đời sống xã hội vì nó gần gũi với đời sống người dân, lại có từ lâu đời nên đã chống lại được sự áp đặt của PLPK Trung Hoa. → Trên cơ sở đó, các nhà nước độc lập sau này đã ban hành pháp luật thực định và thừa nhận các tập quán pháp → có sự kết hợ luật và lệ.
(lệ : có phạm vi hẹp, phù hợp với đời sống xã hội, gần gũi với người dân nhưng hiệu lực pháp lý kém, bị hạn chế)

NGUYÊN NHÂN :
Tại sao lại có các hệ quả của thời kỳ Bắc thuộc đối với nhà nước và pháp luật phong kiến Việt Nam sau này :
- Do thời gian bị đô hộ quá dài (hơn 10 thế kỷ-từ năm 179 tr.CN đến năm 938)
- Trước khi bị thực dân phương Bắc đô hộ, chính trị pháp lý của người Việt rất đơn giản, sơ khai.
- Phù hợp với ý chí của người Việt.
- Tính cởi mở của người cầm quyền - đánh Hán rồi học Hán rồi chống Hán, có sự phân biệt văn minh Hán với người Hán.
Vở ghi:
1.Về nhà nước:
-          Mô hình: hoàng đế 1 người
-          Ở trung ương: vua, quan lại, phương thức điều hành, nguyên tắc tập quyền, quan chế, quân đội
-          Ở địa phương: Bộ máy hành chính nhà nước
-          Tư tưởng chính trị pháp lý đạo giáo, nho giáo, phật giáo
Câu 5: Đặc điểm của nhà nước và pháp luật thời kỳ Bắc thuộc.
Câu 6: Đặc điểm của chính quyền đô hộ phong kiến Trung Quốc ở Âu Lạc thời kỳ Bắc thuộc.
Câu 7: Địa vị và quyền lực của nhà vua trong nhà nước phong kiến Việt Nam. (trang 67 giáo trình)
Đứng đầu bộ máy nhà nước, thâu tóm mọi quyền hành bao gồm cả thế quyền và thần quyền.
Nhà vua giữ vị trí là chủ sở hữu tối cao toàn bộ đất đai, tài nguyên khoáng sản trong cả nước. Để khẳng định điều này, nhà vua là người duy nhất có toàn quyền thu thuế ruộng đất; cũng như trong việc phong cấp, thu hồi đất đai, ban phát tài sản…..
Chính quyền lực cao nhất về kinh tế đã khẳng định các quyền lực cao nhất của vua trong việc điều hành, quản lý nhà nước mà không có 1 chức vụ quan lại nào trong bộ máy nhà nước có đặc quyền ấy.
Về mặt chính trị, nhà vua nắm trong tay cả ba quyền : Lập pháp, hành pháp và tư pháp.
Trong lĩnh vực lập pháp, là người duy nhất có thẩm quyền ban hành luật. Nhà vua là nguồn gốc của pháp luật , ý chí của nhà vua dù thể hiện qua văn bản hay khẩu truyền đều trở thành pháp luật.
Trong lĩnh vực hành pháp, đóng vai trò là người đứng đầu nền hành chính quốc gia. Vua là người quy định chức năng, nhiệm vụ, bổ nhiệm, bãi miễn, điều động tất cả các chức quan từ trung ương đến địa phương; là người đưa quyết định cao nhất và cuối cùng về quản lý hành chính nhà nước. Thông qua toàn bộ hệ thống quan lại do mình trực tiếp bổ nhiệm và điều động, nhà vua quản lý và điều hành được nhà nước một cách toàn diện nhất, chặt chẽ nhất.
Trong lĩnh vực tư pháp, đóng vai trò là 1 vị thẩm phán giữ quyền tài phán cao nhất. Mọi quyết định của Hoàng đế đều có hiệu lực bắt buộc phải thi hành. Đồng thời chỉ có vua mới có quyền đại xá, đặc xá cho tội nhân.
Về mặt quân sự, nhà vua có  vai trò là tổng tư lệnh trong quân đội. Nếu như trước đây, dưới thời Lý - Trần, quyền điều động quân đội thuộc về quan Thái uý, thì dưới triều Lê Thánh Tông, quyền đó do nhà vua trực tiếp thâu tóm
Về mặt ngoại giao, Hoàng đế là người đại diện hợp pháp duy nhất cho quốc gia xã tắc trong qua trình bang giao với các nước. Vua là người cử sứ thần đi nước ngoài, tiếp sứ thần các nước và quyết định chính sách ngoại giao.
Không chỉ dừng lại ở đó, nhà vua còn nắm giữ cả thần quyền. Nhà vua nắm quyền sửa đổi phong tục tập quán, giáo hoá dân chúng. vua nắm quyền chủ trì các lễ nghi tôn giáo, tiến hành các lễ tế trời đất. Vua là người đứng đầu bách thần trong cả nước, có quyền phong chức tước cho thần thánh bằng các sắc phong thần), điều động thần thánh (quy định nơi thờ cúng thần thánh).
Ngoài thế quyền và thần quyến, nhà vua còn nắm một số các ưu quyền tuyệt đối : tên huý của vua và một số người thân thích của vua mọi người không được nhắc tới hoặc viết tới; Những gì thuộc về vua khi được nhắc tới phải dùng các phụ từ đặc biệt như : long, thánh, ngọc,..; Chỉ riêng vua mới được mặc y phục màu vàng; Vua được thần thánh hoá. Những ưu quyền này của nhà vua được nhà nước và pháp luật bảo vệ, ai vi phạm sẽ bị trừng trị.
Câu 8: Nội dung cơ bản và quan điểm chính trị pháp lý cơ bản của Nho giáo.
Câu 9: Những biểu hiện và điểm tích cực, hạn chế của nhà nước phong kiến quân chủ quý tộc ở Việt Nam.
Câu 10: Nguyên nhân chuyển biến từ mô hình nhà nước quân chủ quý tộc sang mô hình nhà nước phong kiến quân chủ quan liêu chuyên chế.
Câu 11: Những biểu hiện của nhà nước phong kiến quân chủ quan liêu chuyên chế ở Việt Nam.
Câu 12: Nguyên nhân thiết lập thể chế nhà nước quân chủ lưỡng đầu Lê – Trịnh.
 Có 3 nguyên nhân chính:
-                Nguyên nhân sâu xa và có tính chất chủ đạo là tư tưởng chính danh của nho giáo. Nho giáo đã trở thành tư tưởng chính trị chính thống từ đầu Lê sơ. Theo quan điểm nho giáo thời bấy giờ chỉ có triều Lê mới là triều đại chính thống. Nên khi lên cầm quyền, các chúa Trịnh ko thể không duy trì triều Lê.
-                Nguyên nhân về mặt lịch sử, thể chế lưỡng đầu đã bước đầu được hình thành từ thời Lê trung hưng, tức giai đoạn Nam triều. Trong đó, bên cạnh vua Lê là Nguyễn Kim oy họ Trịnh nắm thực quyền. Sau khi đánh đổ được nhà Mạc, họ trịnh ko thể ko duy trì vua Lê ở đàng ngoài.
-                Do sự tương quan lực lượng giữa các phe phái PK: giữa tập đoàn họ Trịnh và tập đoàn nhà Lê, giữa PK đàng ngoài & PK dàng trong.
Câu 13: Đặc điểm của thể chế nhà nước lưỡng đầu Lê – Trịnh.
Có 4 đặc điểm:
-                Chính quyền Lê – Trịnh thể hiện sự hoàn bị, rõ ràng nhất và tiêu biểu về thể chế lưỡng đầu trong lịch sử chế độ phong kiến VN
-                Chính quyền Lê – Trịnh là thể chế lưỡng đầu của 2 dòng họ, giữa vua và chúa, giữa đế và vương, kết hợp với nhau trong sự đối trọng vừa hòa hợp vừa mâu thuẫn.
-                Thể chế lưỡng đầu vua Lê – chúa Trịnh là cả một hệ thống cơ cấu tổ chức nhà nước chặt chẽ, rõ ràng, trong đó có một số yếu tố đã được luật pháp hóa.
-                Nhà nước có nhiều cơ quan và chức quan mới được đặt ra, ngạch quan văn võ có vai trò rất quan trọng, hầu hết các chức vụ chủ chốt từ trung ương đến địa phương được trao cho các võ quan nắm giữ.
Câu 14: Sự kết hợp yếu tố Trung Quốc và Đại Việt trong bộ máy nhà nước phong kiến. (đề cương 2 trang 27)
Câu 15: Hệ thống hình phạt và đặc điểm của hình phạt trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
A.                Hệ thống hình phạt:
B.                 Đặc điểm hình phạt:
1.            Tính dã man, tàn bạo.
      Trong Đại Việt sử kí toàn thư có một số ghi chép ít ỏi về PL thời Ngô Đinh tiền Lê theo đó năm 968, Đinh Tiên Hoàng “muốn sử dụng uy chề ngự thiên hạ, bèn đặt vạc dầu lớn ở sân triều, nuôi hổ dữ trong cũi, hạ lệnh rằng: kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn, mọi người đều sợ phục, không ai dám phạm”. Ngoài ra theo Tống sử thời tiền Lê, quan lại “ tả hữu có lỗi nhỏ cũng giết đi hoặc đánh từ 100 roi đến 200 roi. Bọn quan giúp việc gì làm phật ý cũng đánh từ 30 roi đến 50 roi…”
     Đến thời Lý-Trần-Hồ hệ thống hình phạt bao gồm Ngũ hình và các hình phạt bổ sung. Hệ thồng hình phạt trong PL Lý-Trần-Hồ được kế thừa hầu như nguyên vẹn dưới thời nhà Lê với sự ra đời của QTHL và sang đến thời Nguyễn thì hệ thống hình phạt cũng có cơ cấu hầu như không thay đổi được quy định trong HVLL.
     Hình phạt Ngũ hình được các triều đại PKVN áp dụng gồm:
+ Xuy
      Dưới triều đại nhà Lý- Trần- Hồ thì hình phạt này chưa thấy có trường hợp nào được nói tới nhưng nó vẫn nằm trong hệ thống hình phạt ngũ hình.
     Hình phạt này được nêu rất rõ trong QTHL là có 5 bậc từ 10 đến 50 roi. Phạm nhân sẽ bị đánh bằng roi mây nhỏ vào mông.
     Trong HVLL hình phạt này không hề có sự thay đổi so với QTHL và được coi là một hình phạt nhẹ với các cấp độ cũng là 5 bậc từ 10 roi đến 50 roi.
     Với hình phạt này nhằm mục đích làm cho người phạm tội cảm thấy đau đớn, xấu hổ và không có ý định phạm tội lần nữa, hình phạt này vừa có thể áp dụng độc lập(điều 570, 572…QTHL) vừa có thể là hình phạt áp dụng bổ sung cùng với hình phạt tiền và biếm (điều 295,374…QTHL).
 + Trượng
     Các đạo chiếu dưới triều Lý-Trần-Hồ không phản ánh trong hình phạt trượng có mấy bậc cụ thể.
     Trong QTHL quy định trượng có 5 cấp độ từ 60 đến 100 roi. Ở bộ luật này, hình phạt trượng chỉ áp dụng đối với nam giới còn nữ giới thì được đổi thành xuy.
     Còn đối với HVLL cũng quy định trượng có 5 cấp độ song hình phạt này còn được áp dụng với cả nữ giới chỉ trừ trường hợp phạm ngoài tội thập ác, thông gian, trộm cắp thì mới được đổi trượng thành xuy.
     Hình phạt này cũng có thể là một hình phạt độc lập(điều 547,640….QTHL) hoặc cũng có thể là một hình phạt bổ sung cùng tội lưu, đồ và biếm(điều 351,360…QTHL)
+ Đồ
     Loại hình phạt này chỉ được quy định cu thể trong triều Trần Thánh Tông có 2 bậc là bậc nặng thì người bị tội phải làm nô cày ruộng ở Tảo xã, phải cày cấy 3 mẫu ruộng công, nộp 300 thăng thóc rồi bị thích 6 chữ vào mặt, còn bậc nhẹ thì đày làm lính lao thành, thích 4 chữ vào trán và đi phát cỏ ở Thăng Long thành, Phượng thành, bốn sương quân.
     Trong QTHL đồ được quy định có 3 bậc và được phân biệt giữa nam giới và nữ giới:
- Bậc thứ nhất là dịch đinh và dịch phu. Trong trường hợp áp dụng hình phạt này thì nam giới phải chịu 80 trượng còn nữ giới thì phải chịu 50 xuy.
- Bậc thứ hai là tượng phương fbinh và su thất tuỳ với hình phạt dành cho nam và nữ, cùng với hình phạt này thì nam giới còn bị đánh 80 trượng bị thích vào cổ 2 chữ còn nữ giới thì bị đánh 50 xuy và cũng phải thích vào cổ 2 chữ.
- Bậc 3 là chủng điền binh dành cho nam giới và chung thất tỳ dành cho nữ giới, các hình phạt bổ sung là nam giới bị đánh 80 trượng thích vào cổ 4 chữ và đeo xiềng, trong khi đó thì nữ giới bị phạt 50 xuy và thích vào cổ 4 chữ.
     Trong bộ HVLL được chia làm 5 bậc đồ là 1 năm với 60 trượng, 1,5 năm là 70 trượng, 2 năm là 80 trượng, 2,5 năm là 90 trượng và 3 năm là 100 trượng. Khi bị tội này người phạm tội bị quản thúc ở Trấn họ ở và bị bắt phải làm những việc nặng nhọc từ 1 đến 3 năm và trong suốt thời hạn này họ bị xiềng chân. Ngoài ra HVLL còn có quy định nhận đồ là đối với một số tội sẽ được đổi từ 3 bậc lưu sang 4 năm đồ, tạp phạm bị treo cổ, chém được đổi sang 5 đồ.
+ Lưu
     Hình phạt này chỉ được thấy trong đạo chiếu 1044 quy định các quan bỏ trốn thì bị xử tội theo ba bậc lưu, hay một đạo chiếu khác cùng năm là phạt người nào coi lụa mà tham nhũng thì bị xử lưu 10 năm. Còn ngoài ra không có đạo chiếu nào ghi cụ thể bậc trong hình phạt này dưới các triều Lý-Trần-Hồ.
     Dưới triều đại nhà Lê thì lưư gồm có 3 bậc được áp dụng cùng với suy, trượng, thích chữ hoặc đeo xiềng tuỳ vào từng bậc cụ thể: Châu gần, châu ngoài và châu xa.
     HVLL cũng chia thành 3 bậc tuy nhiên chia theo số lý tức là có 2000 lý, 2500 lý và 3000 lý tuỳ vào từng tội.
+ Tử
     Đây là mức hình phạt cao nhất trong Ngũ hình và ở các triều đại PKVN từ Lý-Trần-Hồ đến Lê sơ rồi Triều Nguyễn đều có các hình thức tử hình là giảo và trảm, chém bêu đầu và lăng trì. Các hình thức này đều khiến cho mọi người phạm tội đau đớn về thể xác.
     Ngoài các hình phạt này thì còn có các hình phạt bổ sung như biếm tước. phạt tiền, thích chữ, đeo xiềng, tịch thu tài sản và xung vợ con làm nô tỳ…Các hình thức này thường đi kèm với các hình phạt trong Ngũ hình tuy nhiên cũng có trường hợp là hình phạt độc lập. Có thể thấy rằng các hình phạt này cũng gây đau đớn về mặt thể xác cho con người như đeo xiềng hay thích chữ đồng thời cũng làm cho họ thấy nhục nhã về mặt tinh thần.
2.            Hình phạt của PLPK là chế tài chung cho mọi vi phạm thể hiện tính phổ biến của hình phạt.
     Đa số các vi phạm đều sử dụng các chế tài hình sự để áp dụng( khoảng 80% các điều luật đều có sử dụng các chế tài hình sự để xử phạt). Chủ yếu là Ngũ hình ngoài ra còn có phạt tiền, biếm, thích chữ…Điều đó được thể hiện rõ trong hầu hết các vi phạm PL như sau:
     Quan niệm của các nhà làm luật PKVN về hình phạt có phạm vi điều chỉnh khá rộng. Các bộ luật thường có hiệu lực áp dụng trong khoảng thời gian khá dài. Vì vậy, hầu hết các vi phạm trong mọi lĩnh vực qhxh đều phải chịu chế tài hình sự: hình sự, dân sự, hành chính, hôn nhân gia đình, quan chế, tố tụng, thuế, thi cử….
+Thời Ngô-Đinh-tiền Lê, như Đinh Tiên Hoàng tuyên bố “ kẻ nào trái phép phải chịu tội bỏ vạc dầu, cho hổ ăn” thì cứ bất kỳ hành vi trái phép nào sẽ đều có một kết cục xử phạt chung, dù hành vi đó thuộc lĩnh vực dân sự, hành chính hay gia đình.
+Sang thời Lý-Trần-Hồ thì một nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vực hình sự là mọi hành vi vi phạm PL đều bị trừng trị bằng hình phạt. Nguyên tắc này khiến hình phạt phổ biến ở khắp mọi lĩnh vực của đới sống. Trong 27 chiếu, lệnh có quy định áp dụng hình phạt trong số các chiếu, lệnh đã thống kê dưới triều Lý, Trần thì có 17 vi phạm thuộc lĩnh vực hình sự, 5 vi phạm thuộc lĩnh vực dân sự, 2 vi phạm thuộc lĩnh vực hôn nhân gia đình, còn lại là những vi phạm thuộc lĩnh vực quản lý hành chính và các lĩnh vực khác.
+Đến thời Lê và Nguyễn hình phạt vẫn là chế tài phổ biến đối với các hành vi vi phạm dù là trong lĩnh vực hình sự hay dân sự, hành chính, hôn nhân gia đình, luân thường đạo lý…
3.            Hình phạt trong PLPKVN được quy định một cách cố định hoá, cụ thể hoá và chi tiết hoá trong hầu hết các điều khoản.
Đây là một đặc điểm thể hiện rõ tính cụ thể và phân hoá cao trong PLPKVN về hình phạt áp dụng với người phạm tội. Căn cứ để các nhà làm luật PK cố định hoá, cụ thể hoá, chi tiết hoá hình phạt gắn với từng hành vi phạm tội trong từng điều luật.
+ Dựa vào hậu quả phạm tội.Hậu quả ấy là thiệt hại do hành vi phạm tội gây ra cho qhxh được PL bảo vệ, tính chất và mức độ hậu quả gây ra càng lớn thì tính chất nguy hiểm cho xh càng cao. Các nhà làm luật PK đã dựa vào căn cứ này để tuyên hình phạt tương xứng với hành vi phạm tội mà tội phạm thực hiện trên thực tế.
+ Công cụ phương tiện phạm tội để cố định, cụ thể và chi tiết hoá hình phạt.Công cụ và phương tiện phạm tội là đối tượng mà chủ thể của tội phạm sử dụng để thực hiện hành vi phạm tội của mình. Công cụ phạm tội là dạng cụ thể của phương tiện phạm tội, phương tiện phạm tội càng nguy hiểm thì mức độ nguy hiểm của hành vi phạm tội càng lớn.
+ Căn cứ vào địa vị người phạm tội và người bị hại.PLPK cho rằng quan hệ giữa người phạm tội và nạ nhân xét về địa vị xã hội, địa vị trong dòng họ gia đình theo lễ giáo PK là yếu tố ảnh hưởng không nhỏ đến mức độ hình phạt, và tuân theo quy luật : mức độ nguy hiểm và tội phạm tỉ lệ thuận với địa vị nạn nhân và tỉ lệ nghịch với địa vị của chủ thể của tội phạm.
+ Căn cứ vào hoàn cảnh phạm tội. Đây là căn cứ có ý nghĩa quan trọng trong việc dánh giá mức độ nguy hiểm cho xh của hành vi phạm tội, từ đó áp dụng hình phạt hợp lý cho từng tội phạm.
Như vậy trong PLPK hình phạt được quy định một cách cố định, rất cụ thể, tỉ mỉ gắn với từng hành vi phạm tội trong từng điều khoản. Các nhà làm luật miêu tả từng trường hợp phạm tội cùng với tất cả các tình tiết ảnh hưởng đến mức độ hình phạt và mức phạt cho trường hợp phạm tội đó.Mặc dù cứng nhắc. lắm điều luật rườm rà và thể hiện tính khái quát chưa cao trong kỹ thuật lập pháp, song nó có ưu điểm lớn đặc biệt vào thời điểm đó: tính cụ thể và phân hoá cao trong luật.
Câu 16: Nhóm tội thập ác trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
-Tội thập ác là những tội xâm hại đến vương quyền của nhà vua, đến trật tự xã hội của Nho giáo. Bởi vậy, dưới cái nhìn của nhà làm luật phong kiến, thập ác là những trọng tội nguy hiểm nhất, và luôn đi kèm với đó là những hình phạt nghiêm khắc và tàn bạo nhất: " Những kẻ mưu làm phản, mưu làm việc đại nghịch thì xử tội chém bêu đầu, kẻ tòng phạm và thân đảng biết việc ấy đều phải tội chém, vợ con điền sản đều bị tịch thu làm của công... " [ Điều 411 Quốc triều hình luật ]. Do đặc điểm này mà pháp luật phong kiến quy định các tội thập ác không được hưởng nghị giảm theo chế độ bát nghị, không được chuộc tội bằng tiền, không được hưởng chế độ đặc xá, đại xá...
Thập ác bao gồm:
1. Mưu phản: lật đổ nền cai trị của nhà vua, làm xụp đổ xã tắc.
2. Mưu đại nghịch: phá đền đài, lăng tẩm, cung điện của nhà vua.
3. Mưu bạn: phản bội Tổ quốc theo giặc.
4. Ác nghịch: mưu giết hay đánh ông bà, cha mẹ, tôn thuộc.
5. Bất đạo: vô cớ giết nhiều người, cắt tay chân người sống, chế thuốc độc bùa mê, tàn ác, hung bạo...
6. Đại bất kính: lấy trộm các đồ tế trong lăng tẩm, các vật dụng của vua, làm giả ấn vua...
7. Bất hiếu: cáo giác hay chửi rủa ông bà, bố mẹ hay ông bà, bố mẹ chồng. Không phụng dưỡng bố mẹ, tự ý bỏ nhà, tự ý phân chia tài sản, cưới xin khi có tang cha mẹ, vui chơi trong khi tang chế, được tin bố mẹ, ông bà chết không chịu tang hoặc phát tang giả dối.
8. Bất mục: mưu giết hay bán các thân thuộc (cho đến ngũ đại), đánh hoặc cáo giác chồng hay các tôn thuộc (cho đến tam đại).
9. Bất nghĩa:dân giết quan lại sở tại, lính tốt giết quan chỉ huy, học trò giết thầy dạy, vợ không để tang chồng, ăn chơi và tái giá.
10. Nội loạn: tức là tội loạn luân (thông dâm với thân thuộc hay với các thiếp của bố hay của ông).
Câu 17: Phân loại tội phạm và ý nghĩa của việc phân loại tội phạm trong pháp luật phong kiến Việt Nam
Pháp luật phong kiến Việt Nam không trực tiếp quy định phân loại tội phạm cũng như cơ sở thống nhất của sự phân loại tội phạm như luật Hình sự hiện nay. Tuy vậy, nghiên cứu những quy định của các bộ luật trong pháp luật phong kiến ấy cho thấy: Các bộ luật phong kiến Việt Nam cũng có có sự phân loại tội phạm theo các quan niệm của thời bấy giờ, theo các cơ sở (tiêu chí) khác nhau, nhằm mục đích tạo cơ sở pháp lí cho việc phân hóa trách nhiệm hình sự và thực hiện chính sách hình sự của Nhà nước trong việc xây dựng cũng như áp dụng các quy định của luật trong thực tiễn. Các nhà làm luật phong kiến đã rất tiến bộ và đã đưa ra nhiều quan điểm phân loại tội phạm còn được lưu giữ và áp dụng đến ngày nay: Phân loại tội phạm dựa theo hình phạt, phân loại tội phạm dựa theo tính chất nghiêm trọng của quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại và phân loại tội phạm theo lỗi của người phạm tội.
1.       Phân loại tội phạm dựa theo hình phạt
a)       Nội dung
            Theo quan niệm của luật hình hiện đại, hình phạt là chế tài đặc trưng riêng của luật hình và chỉ áp dụng đối với tội phạm. Nhưng các nhà làm luật phong kiến quan niệm rất rộng về hình phạt. Hình phạt là chế tài phổ biến đối với các hành vi vi phạm dù trong lĩnh vực hình sự hay dân sự , hành chính, hôn nhân gia đình, luân thường đạo lý…. Quan niệm đó làm cho hình phạt trong luật hình phong kiến có tính phổ biến.
            Có thể thấy rằng, hệ thống hình phạt là một trong những yếu tố Trung Hoa trong hệ thống pháp luật phong kiến việt Nam. Nhằm đề cao tính răn đe, ngũ hình được quy định ở ngay Điều 1 của cảc hai bộ luật QTHL và HVLL. Nhóm hình phạt này luôn là nhóm hình phạt chính trong hệ thống pháp luật của các triều đại phong kiến Việt Nam. Chính vì thế, các nhà làm luật phong kiến đã dựa vào nhóm hình phạt này để phân loại tội phạm. Nhóm tội phạm ngũ hình gồm 5 loại: Tội xuy, tội trượng, tội đồ, tội lưu và tội tử.
            Trong luật Hình sự hiện hành của chúng ta hiện nay (bộ luật Hình sự năm 1999), mức hình phạt cũng được coi là một trong những dấu hiệu để phân biệt các loại tội phạm. Tuy nhiên, về vấn đề này vẫn có sự khác nhau giữa các bộ luật phong kiến Việt Nam và bộ luật Hình sự Việt Nam hiện hành:
  Nếu bộ luật Hình sự năm 1999 lấy mức cao nhất của khung hình phạt thì các bộ  luật phong kiến Việt Nam lại lấy hình phạt cụ thể là tiêu chí để phân biệt các lọai tội phạm.   v
  Nếu bộ luật Hình sự năm 1999 xác định rõ mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội trước rồi mới xác định loại và mức chế tài cho từng loại tội (theo Điều 8 - bộ luật hình sự năm 1999 thì tội phạm được phân thành 4 loại tương ứng với 4 mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội: ít nghiêm trọng, nghiêm trọng, rất nghiêm trọng và đặc biệt nghiêm trọng) thì các bộ luật phong kiến Việt Nam không có sự xác định rõ các mức độ của tính nguy hiểm cho xã hội của từng loại tội mà quy định trực tiếp: Tội xuy là…, Tội trượng là…, Tội đồ là…, Tội lưu là…, Tội tử là…và gắn với tên của 5 loại tội ấy là 5 hình phạt cụ thể (xuy hình, trượng hình, đồ hình, lưu hình, tử hình :   v
-  Xuy hình là hình phạt đánh bằng roi, thường áp dụng với các tội nhẹ, chủ yếu làm phạm nhân xấu hổ răn chừa.
-  Trượng hình là hình phạt đánh bằng gậy, nặng hơn xuy hình, chỉ áp dụng với đàn ông, đàn bà được thay bằng tội xuy.
-  Đồ hình là hình phạt bắt làm tù khổ sai, áp dụng với các tội tương đối nặng như hối lộ, trộm cắp.
-  Lưu hình là hình phạt bắt đi lưu đày. Các tội phạm áp dung hình phạt lưu thường là ở mức cao nhất của các tội hối lộ, trộm cắp, nhằm trừng phạt về thân xác, về tinh thần và thông qua đó giáo dục cải tao phạm nhân.
-  Tử hình là hình phạt nặng nhất thường là chém hoặc treo cổ, thường áp dụng với nhóm tội thập ác, vừa trừng trị tội phạm, vừa răn đe những kẻ khác.
b)       Ý nghĩa
            Với cách phân loại tội phạm dựa trên hình phạt trong các bộ luật phong kiến Việt Nam (thành 5 loại tội phạm) có ý nghĩa rất lớn không chỉ đối với thời kì phong kiến mà đối với cả ngày nay.
Trước hết, nó là căn cứ để quy định tội nặng, tội nhẹ (tội nhẹ như: tội xuy, tội trượng; tội nặng như: tội đồ, tội lưu, tội tử). Và thể hiện rõ quan điểm của các nhà làm luật thời bấy giờ trong việc đánh giá tính nghiêm khắc của từng loại hình phạt cũng như vai trò của hình phạt trong việc xử lí tôi phạm và duy trì trật tự xã hội có lợi cho Nhà nước phong kiến.       ü
Và việc phân loại tội phạm thành năm loại như vậy tạo điều kiên rất thuận lợi cho việc áp dụng hình phạt, từng loại tội sẽ có ngay hình phạt tương ứng. Đồng thời, việc quy định tội phạm và những hình phạt áp dụng phần nào đặt nền móng cho những quy định về hình phạt chính và hình phạt bổ sung trong luật hình sự hiện đại.       ü
Từ đó, nó là căn cứ để quy định thẩm quyền của các cấp xét xử. Với những tội nhẹ, bản án sơ thẩm cấp Phủ, cấp Huyện có hiệu lực thi hành ngay; nhưng với những tội nặng thì phải chuyển lên cấp trên.       ü
Ví dụ: Điều 4 – QTHL quy định: “phàm những người thuộc vào tám điều nghị xét giảm tội, mà phạm vào tử tội thì các quan nghị án phải khai rõ tội trạng và hình phạt nên xử lí thế nào rồi làm thành bản án, dâng lên vua để xét định”.
            Điều 17 – HVLL quy định: “Người phạm tử tội không được ân xá bình thường có ông bà nội, cha mẹ già trên 70 tuổi mà gia đình không có ai lớn từ 16tuổi trở lên thì pháp quan phải điều tra kĩ lưỡng tâu vua quyết định”.
Trên cơ sở phân loại tội phạm theo hình phạt, nó phản ánh chính sách Hình sự của Nhà nước phong kiến. Như trong Điều 6 – QTHKL quy định: “Những người họ Hoàng Hậu nếu ghép vào tội trượng, tội thích chữ vào mặt thì được phép chuộc tiền”. Hay Điều 17 – HVLL quy định: “Nếu tội đồ, lưu mà cha mẹ già  yếu không ai nuôi dưỡng thì xử 100 trượng, tội còn thừa thì cho chuộc tội ở nhà nuôi dưỡng cha mẹ”.       ü
2.       Phân loại tội phạm dựa theo tính chất nghiêm trọng của quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại
a)        Nội dung
            Do ảnh hưởng từ luật pháp Trung Hoa, nên tất cả các triều đại phong kiến việt Nam đều tiến hành phân chia tội phạm thành hai nhóm tội là: nhóm tội thập ác và nhóm tội ngoài thập ác.           Đây thực ra không phải là cách phân loại trực tiếp tội phạm mà chỉ là kết quả gián tiếp của việc liệt kê 10 loại tội được xem là nguy hiểm nhất đối với chế độ quân chủ cũng như đối với trật tự, kỉ cương, đạo đức xã hội được thừa nhận trong xã hội phong kiến thời bấy giờ. Mười loại tội phạm này đều được quy định tại Điều 2 của QTHL và HVLL với tên gọi là mười tội ác (thập ác). Với việc quy định này, tội phạm đã được phân thành hai loại tội: Loại tội thập ác và loại tội thường.
            Loại tội thập ác (là loại tội điển hình, thể hiện quan điểm Nho giáo) bao gồm 10 nhóm tội khác nhau – những tội đặc biệt nguy hại đối với vương quyền và trật tự xã hội gia đình phong kiến. Đó là: Tội mưu phản, tội mưu đại nghịch, tội mưu chống đối, tội ác nghịch, tội bất đạo, tội đại bất kính, tội bất hiếu, tội bất mục, tội bất nghĩa, tội nội loạn. Trong đó có bốn tội bảo vệ vương quyền (mưu phản, mưu đại nghịch, mưu chống đối, đại bất kính), 5 tội bảo vệ quan hệ hôn nhân gia đình phong kiến (ác nghịch, bất hiếu, bất mục, bất nghĩa, nội loạn) và một tội trừng trị những hành vi phạm tội vô cùng dã man, tàn ác xâm hại nghiêm trọng một trong những tiêu chí đạo đức hàng đầu của đạo Nho (tội bất đạo). Có thể thấy rằng, thập ác tội là chế định thể hiện rõ nhất bản chất giai cấp của pháp luật phong kiến, trật tự xã hội gia đình phong kiến.
            Loại tội thường rất đa dạng và phong phú tùy theo khách thể bị hành vi tội phạm tác động. Đó có thể là: các tội xâm hại an toàn thân thể của vua, xâm phạm sự an toàn, yên tĩnh, nghi lễ của cung phủ hoặc các tội xâm phạm trạt tự công cộng, trật tự quản lí hành chính, thể thức lễ nghi triều đình hoặc các tội xâm phạm tính mạng, sức khỏe của con người hoặc các tội xâm phạm an ninh quốc gia, trật tự an toàn chế độ xã hội phong kiến hoặc các tội phạm quân sự hoặc các tội xâm phạm chế độ hôn nhân-gia đình phong kiến và các tội tình dục hoặc các tội xâm phạm hoạt động tư pháp (theo QTHL).
Nhưng theo HVLL, các nhóm tội phạm được phân loại mang tính khái quát hơn trong QTHL, gồm 7 nhóm tội bình thường khác: nhóm tội vi phạm chế độ quan chức quản lí hành chính, các vi phạm về dân sự, các vi phạm về tế tự, các tội phạm về quân sự lưu thông, các vi phạm về tư pháp xét xử, các vi phạm về xây dựng, đê điều.
b)       Ý nghĩa
            Cách phân loại tội phạm theo tính chất nghiêm trọng của quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại trong các bộ luật phong kiến việt Nam có ý nghĩa rất quan trọng lúc bấy giờ. Bởi:
Nó là căn cứ để các bộ luật quy định việc áp dụng các nguyên tắc chung: Với nhóm tội thập ác thì không được áp dụng nguyên tắc chiếu cố, nguyên tắc chuộc tội bằng tiền và nguyên tắc miễn giảm trách nhiệm hình sự. Do tính chất nguy hiểm đặc biệt cho xã hội của nhóm tội thập ác nên các quy định trong các bộ luật phong kiến thể hiện chính sách, thái độ trừng trị rất nghiêm khắc của Nhà nước với người phạm tội trong các tội này: như ngoài các hình phạt rất nghiêm khắc quy định       ü cho từng loại tội ác, người phạm tội còn phải chịu một loạt các hạn chế bất lợi khác như không được hưởng chế độ bát nghị (Điều 3 – HVLL), không được chuộc tội, không được miễn chịu hình phạt khi có ân xá như khi phạm các tội thường khác.
            Ví dụ: Điều 15 – HVLL quy định: “ phàm phạm 10 ác dù gặp dịp ân xá cũng không được tha”.
       Hay Điều 4 – QTHL đã quy định việc miễn giảm trách nhiệm hình sự cho người thuộc diện bát nghị (tám loại người được giảm tội) nhưng đã loại trừ không cho người phạm tội thập ác được hưởng các chế độ miễn giảm trách nhiệm hình sự như khi phạm các tội thường: “Nếu phạm tội thập ác thì không theo luật này”, hoặc Điều 11, Điều 14, Điều 18 – QTHL.
Phân loại tội phạm theo tầm quan trọng của quan hệ xã hội bị tội phạm xâm hại, có ý nghĩa vô cùng lớn trong việc bảo vệ những chẩn mực phong kiến, những quan hệ xã hội cơ bản như quan hệ Vua – tôi, quan hệ trong gia đình, dòng họ.       ü
Và với việc phân loại nhóm tội thập ác và nhóm tội thường, đặc biệt đối với những hành vi xâm phạm tính mạng, sức khỏe, bất nghĩa với ông bà, cha mẹ, thày cô…có giá trị tham khảo và cần được tiếp tục nghiên cứu, kế thừa nhất là trong điều kiện đạo đức xã hội đã và đang xuống cấp nghiêm trọng hiện nay. Vì thế, nó góp phần xây dựng và hoàn thiện pháp luật Hình sự hiện nay của Nhà nước ta.       ü
3.       Phân loại tội phạm theo lỗi của người phạm tội
a)       Nội dung
            Nếu căn cứ vào lỗi của người phạm tội, các bộ luật phong kiến Việt Nam phân biệt tội phạm thành tội cố ý và tội do lầm lỡ (do vô ý). Thật ra, các bộ luật phong kiến Việt Nam (cụ thể là QTHL và HVLL) không trực tiếp quy định nội dung của lỗi cố ý và lỗi vô ý, đồng thời cũng không quy định tội cố ý và tội vô ý riêng rẽ khi quy định các tội phạm cụ thể như trong luật Hình sự hiện nay. Nhưng nhiều quy định của các bộ luật phong kiến Việt Nam lại thể hiện được nguyên tắc xử lí có phân biệt của Nhà nước đối với người phạm tội cố ý và người phạm tội vô ý, đặc biệt là trong quy định các tội phạm cụ thể.
            Ngay từ thời Lê, trong QTHL đã có những quy định thể hiện điều này, cụ thể trong Điều 47 – QTHL: “Những người phạm tội tuy tên gọi giống nhau, nhưng phải phân biệt sự phạm tội vì lầm lỡ hay cố ý, phải xét tội nặng nhẹ mà thêm bớt, không nên câu nệ, để hợp với ý nghĩa việc xét xử hình án: “Tha người lầm lỡ không kể tội nặng nhẹ, bắt tội người cố ý không kể tội nhẹ”. Quy định này tuy con rất chung chung nhưng đã thể hiện được quan điểm của các nhà làm luật thời Lê.
            Đến thời Nguyễn, quan điểm này đã được thể hiện rõ nét hơn khi quy định rõ ràng trong các điều luật. Ví dụ như: Tội nô tì đánh gia trưởng Điều 283 – HVLL quy định: “Phàm nô tì đáng gia trưởng bị thương hay không, không chia thủ tùng đều bị chém. Còn giết gia trưởng “cố sát” thì bị xử lăng trì. Nếu chết bởi nô tì sơ ý thì treo cổ, lơ đễnh làm bị thương thì phạt 100 trượng lưu 300 dặm”. Qua đó có thể thấy, tội phạm trong HVLL đã được phân thành tội phạm do cố ý và tội phạm do vô ý.
            Phân loại tội phạm theo lỗi của chủ thể phạm tội cũng là một tiêu chí phân loại tội phạm trong pháp luật Hình sự hiện nay. Nhưng so với pháp luật phong kiến thì pháp luật Hình sự hiện nay quy định về tội do lỗi cố ý và tội do lỗi vô ý vừa khái quát, vừa rõ ràng, vừa cụ thể hơn (Điều 9, Điều10, BLHS 1999), và còn đặt ra vấn đề phân biệt giữa trường hợp có lỗi - phải chịu trách nhiệm hình sự với trường hợp không có lỗi – không phải chịu trách nhiệm hình sự. Còn các bộ luật phong kiến chỉ đặt ra vấn đề phân biệt giữa trường hợp lỗi cố ý và trường hợp vô ý để xác định mức độ trách nhiệm hình sự trong áp dụng  cũng như trong việc quy định hình phạt khác nhau ở một số tội phạm cụ thể. Tuy nhiên ở thời bấy giờ, đây cũng là một tiến bộ rất lớn và có ý nghĩa của các nhà làm luật phong kiến khi phân biệt tội cố ý và tội vô ý.
b)       Ý nghĩa
            Cách phân loại tội phạm theo lỗi của chủ thể (lỗi vô ý và lỗi cố ý) có ý nghĩa rất lớn trong áp dụng luật. Đó là:
Đây là căn cứ để quyết định hình phạt trong các bộ luật phong kiến Việt Nam. Có thể thấy rằng, tuy phạm cùng một tội, nhưng lỗi cố ý luôn bị phạt nặng hơn lỗi vô ý.       ü
Ví dụ: Điều 497 – QTHL quy định: “Trong khi đánh nhau, lỡ đánh lầm phải người xung quanh bị thương hay đến chết thì xử nhẹ  hơn tội đánh chết người một bậc”.
            Hay Điều 498 – QTHL quy định: “Vì chơi đùa mà làm người khác bị thương hoặc chết thì xử nhẹ hơn tội đánh bị thương hay chết người hai bậc”.
            Hay Điều 283 – HVLL.
Đây còn là căn cứ để áp dụng một số nguyên tắc chung của pháp luật Hình sự phong kiến. Đó là: Yếu tố lỗi là căn cứ để tăng nặng hay giảm nhẹ trách nhiệm hình sự. Các bộ luật phong kiến Việt Nam quy định xử nặng với các tội cố ý và giảm nhẹ với các tội vô ý ( do lầm lỡ).       ü
            Việc phân loại tội phạm thành tội cố ý và tội vô ý cho phép người phạm tội với lỗi vô ý được chuộc tội bằng tiền để phần nào giảm nhẹ sự hà khắc của hình phạt đối với người phạm tội. Nhưng với người phạm tội do lỗi cố ý thì không được chuộc tội bằng tiền.
Ngoài ra, với việc phân biệt phạm tội do lỗi cố ý và phạm tội do lỗi vô ý trong các bộ luật phong kiến Việt Nam, buộc các cơ quan xét xử trong khi áp dụng luật, đặc biệt trong khi xét xử phải phân hóa trách nhiệm hình sự (hình phạt) tương ứng cho trường hợp cố ý phạm tội và vô ý phạm tội.       ü
Câu 18: Các nguyên tắc chung trong lĩnh vực hình sự của pháp luật phong kiến Việt Nam. (đề cương 2 trang 17)
Câu 19: Chế độ hôn nhân gia trưởng trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
thực chất của nguyên tắc này là đề cao tuyệt đối uy quyền của người chồng và thừa nhận vị trí lệ thuộc của người vợ. Tinh thần của hàng loạt các quy định PL, đặc biệt là các điều 333, Đ 477,418,482,221,401… QTHL hay Đ164 Hồng đức thiện chính thư… đã cho thấy rằng, trong quan hệ vợ chồng, người vợ phải thực hiện nghĩa vụ nhiều hơn thực hiện quyền. Người vợ không có quyền hành động như chồng, do đó trong trường hợp phạm lỗi giống nhau thì trách nhiệm áp dụng cho vợ và chồng lại khác nhau theo xu hướng nhẹ hoen đối với chồng.
-          Biểu hiện của chế độ hôn nhân gia trưởng trong PLPK
+Duy trì và bảo vệ chế độ đa thê.
 điều nàyđược xác lập và duy trì cả bằng PTTQ và PL quan niệm này của Nho giáo nhằm đảm bảo lợi ích của đại gia đình PK, bảo vệ tôn ti trật tự, sự ổn định trong gia đình. Điều 309 QTHL quy định : “ Ai lấy nàng hầu lên làm vợ thì xử tội phạt ”… Quy định này đã thể hiện sự phân biệt vị trí rõ rểttong quan hệ giữa vợ cả, vợ lẽ với nàng hầu,và điều đó có tác dụng ổn định trật tự trong gia đình. Việc thừa nhận chế độ đa thê tất yếu dẫn đến sự phân biệt đối xử, địa vị quyền lợi giữa  những người vợ. Dẫn đến sự bất bình đẳng trong hôn nhân, địa vị của vợ cả, thê , thiếp trong gia đình, người vợ bé bao giờ cũng phải chịu thiệt thòi hơn.àVì quyền lợi của gia đình, duy trì sự trường tồn, thịnh vượng của gia đình lên PLPK khuyến khích chế độ đa thê để có gia đình nhiều con cháu. Trật tự được xác lập trước hết là giữa người vợ cả, vợ thứ, thê, thiếp…
+Tồn tại sự phân biệt địa vị trên dưới giữa các chủ thể trong quan hệ hôn nhân gia đình :
Mục đích của PL triều Lê nói riêng và PL PK nói chung là nhằm duy trì và bảo đảm sự hoà thuận trong gia đình theo quan điểm Nho giáo, việc xác lập trật tự hoà thuận trong gia đình phải thông qua luân lí gia đình, kỷ cương trật tự trên dưới một cách rõ ràng, nên sự bất bình đẳng giữa các chủ thể là điều kiện , đồng thời là hệ quả của việc xác lập trật tự đó.
-          Sự bất bình đẳng biểu hiện ở các quan hệ sau :
+Yêu cầu chặt chẽ về đạo đức của người vợ khi kết hôn
+Bảo vệ quyền gia trưởng trong gia đình của người chồng.
-Tuyệt đối thuỷ chung với chồng
      - người vợ phải tuân thủ , phục tùng chồng..
- người vợ có nghĩa vụ phải ở với chồng, không được tự ý rời bỏ nhà chồng đi nơi khác…
- Bênh vực quyền của người chồng so với vợ : Trong khi người vợ để tang chồng trong thời gian 3 năm bằng thười gian để tang cha mẹ, với những quy định rất khắt khe, chặt chẽ về tang phục, cách xử sự… trong khi đó PL không có quy định nào về việc để tang vợ của người chồng
   - Trong quan hệ tài sản thì sự phân biệt quyên lợi giữa vợ và chồng được thể hiện
-Trong việc li hôn : Nhà làm luật quy định các duyên cớ li hôn là do lỗi của vợ hoặc chồng
-Có sự phân biệt đối sử với vợ lẽ
-Quan hệ cha mẹ và con được điều chỉnh trên cơ sở mệnh lệnh phục tùng và có sự phân biệt đối xử giữa các con..
Câu 20: Chế độ gia đình gia trưởng trong pháp luật phong kiến Việt Nam.
-                      Dưới thời Trần, do ảnh hưởng ngày càng tăng của tư tưởng nho giáo nen đã có một số quy định củng cố chế độ gia đình phụ quyền gia trưởng.
-                      Trong Luật Hồng Đức, sự điều chỉnh và bảo về quan hệ hôn nhân và gia đình trong PLPK là một nội dung rất quan trọng. Hôn nhân không tự do, đa thê và xác lập chế độ gia đình gia trưởng là nguyên tắc cơ bản trong lĩnh vức hôn nhân gia đình của bộ luật.
-                  Trong QTHL, chế dộ gia đình phụ quyền gia trưởng được thể hiện :
o                   về quan hệ gia đình : gia đình trong chế dộ PK là gia đình gia trưởng phụ hệ, ở đó quyền định đoạt tài sản gia đình thuộc về người gia trưởng (chồng hoặc che mẹ) còn các thành viên khác (vợ hay con trẻ) khi còn đang chung sống thì không có quyền này,bất kể họ còn là con trẻ hay đã trưởng thành. Đó là một tập quán lâu đời, bền vững và hầu như không được quy định trong luật pháp.
Luật pháp đề cao vị trí gia trưởng của người tôn trưởng trong hệ thống thân tộc như : quyên được tôn trọng, quyền được quyết định những vấn đề quan trọng liên quan đến quyền lợi của dòng họ, quyền được giảm hình phạt ( khi có hành vi phạ tội với thân thuộc bề dưới.) cụ thể :
o                   Trong xã hội PK, với mục đích bảo về gia đình gia trưởng, quyền lợi của gia đình bao giờ cũng được đặt lên quyên lợi của cá nhân. Nên việc hôn nhân được xác lập là do quyết định của bố mẹ dựa trên cơ sở môn đăng hộ đối là đương nhiên, nam nữ không có quyền quyết định trong việc này. Hơn nữa, tron gquanhệ giữa vợ - chồng, người chồng gần như có quyền tuyệt đối trong gia đình với vợ và con, không được quyền chống lại và phải tuyệt đối tuân thủ.
o                   người vợ có nghĩa vụ phục vụ chồng : khi về nhà chồng, người vợ phảu tuân theo , vâng lời và tôn trọng mọi quyết đình của chồng
o                   với con cái
Cha mẹ có quyền trừng phạt con khi chúng phạm lỗi (Đ475 QTHL). Xuất phát từ quyền của người chủ trong gia đình, cha mẹ có quyền dạy bảo và trừng phạt con khi phạm lỗi. Trong giới hạn của quyền gia trưởng, cha mẹ có quyền đánh con, dù có gây thương tích cũn không bị tội. Chỉ khi đánh đập con đến chết mới phải chịu tội. Đ475 “ nếu con cháu phạm lời dạy dỗ mà ông bà cha mẹ đánh chết thì xử tội đồ làm khao đinh.. ” . Quy định này có thể thấy hành vi của cha mẹ đánh con làm cho con chết được xử giảm nhẹ hơn so với hành vi tương tự của con cái đối với cha mẹ.  (con sẽ bị xử tội chết nếu có mưu giết ông bà cha mẹ).
Luật pháp còn gián tiếp cho phép cha mẹ có quyền bán con, từ con. Song việc PL cho phép bán con là hạn chế do hành cảnh lịch sử, do điều kiện kinh tế, xã hội nhưng lại là một yêu cầu cấp thiết phù hợp với thực tế. Và mặc dù cho phép cha mẹ từ con khi chúng không nghe lời, khó dạy dỗ. Song PL đòi hỏi việc từ con phải có lí do hợp lí, chính đáng và có chứng cứ rõ ràng
PL còn bảo vệ địa vị của người tôn trưởng : với cương vị là người chủ gia đình, người tôn trưởng có quyền quyết định mọi vấn đề quan trọng liên quan đến quyền lợi của gia đình đồng thời cũng phải chịu trách nhiện về những hành vi của các thành viên trong gia đình. Người tôn trưởng được hưởng những quyền tương đương với người gia trưởng.
o    Nghĩa vụ phải chịu trách nhiệm của người gia trưởng thể hiện ở

Với tư cách là người gia trưởng, người chủ trong gia đình, người chồng càng phải có trách nhiệm với vợ con(đây là một quy định đặc biệt không thể tìm thấy trong các văn bản cổ luật ngoài triều Lê): Đ308 : nếu không có việc quan phải đi xa mà người chồng bỏ lửng vợ con thì bị mất vợ.
Đ309 : nếu chông vì quá say đắm nàng hầu mà thờ ở với vợ và nếu vợ thưa lên quan thì bị xử tội biếm
Người gia trưởng cũng phải gánh vá nghĩa vụ là chịu trách nhiệm khi một tập thể thành viên trong dòng họ phạm tội.
-                      Trong Hoang Việt luật Lê : (HVLL) nhà Nguyễn
o                   Bộ luật Gia Long thừa nhận chế độ gia đình cửu tộc và định rõ tang chế ngũ phục trong phần đầu của bộ luật
o                   Trong chế đọ gia đình phụ hệ, vai trò của người đàn ông luôn được luật pháp bảo vệ. Từ luật triều Lý, Trần , Lê đến triều Nguyễn, quyền gia trưởng từng bứơc được đề cao. Gia trưởng (ông, cha , chồng, trưởng nam) là trụ cột trong gia đình và đại diện cho gia đình trướng công quyền, có những quyền và nghĩa vụ nhất định đối với gia đình.
Đ82, 83, 94,109 quy định về quyền nhân thân , tài sản, quyền quyết định việc hôn nhân của con cái, quyền “ rẫy vợ ” của người gia trưởng. Mọi hành vị mà vợ, con cái xâm hại đến gia trưởng đều bị xử tăng nặng.
Đồng  thời HVLL cũng quy định rõ trách nhiệm của người gia trưởn :
            + “ nếu người trong nhà cùng phạm tội thì buộc tội người tôn trưởng ”
            + “ Nếu phụ nữ vi phạm nghi lễ thờ cúng tông miếu thì bắt tội gia trưởng”
            + “ Nhà cửa xây dựng trang trí trái với hình thức quy định thì buộc tồi người gia trưởng” (điều 29,43,156)
            + “ Gia nhân cùng phạm tội che giấu, chỉ buộc tội mình gia trưởng: (Đ358, 269)
 nghĩa vụ dạy bảo vợ của người chồng.à            + “ Phàm đàn bà phạm tội trừ gian dâm và tội chết mới bị giam caams, còn những tội khác thì trách phạt rồi giao cho chông y quan cố
�� �Kết luận chung :
Mặc dù PLPK nói chung còn tồn tại sự phân biệt đói xử ( khoảng cách trên dưới) giữa các chủ thể trong gia đình, song đó cũng được coi là một biện pháp mà NN PK triều Lê , Nguyễn nói riêng và NNPK nói chung sử dụng để giữ vững trật tự sự ổn định của gia đình, qua đó đảm bảo sự ổn đình cảu xã hội. Như vậy, bên cacnhj tính dộc đoán trong quyền lực có phần tiêu cực, hạn chế thì PLPK bảo vệ chế độ gia trưởng cũng có những mặt tích cực nhất định mà mục đích lớn nhất là để bảo về và nhằm hổn định xã hội.
Câu 21: Việc ghi nhận quyền của người phụ nữ trong lĩnh vực hôn nhân và gia đình của pháp luật phong kiến Việt Nam.
Được thể hiện rõ trong QTHL
1, Quyền từ hôn của người con gái:
 QTHL đã có những điều khoản tiến bộ bảo vệ người con gái ngay từ khi chuẩn bị bước chân về nhà chồng. Ở giai đoạn sau khi đính hôn, người con gái được quyền kêu quan trả đồ lễ đã đính hôn khi người con trai bị ác tật hay phạm tội hoặc phá tán gia sản. Tức là người con gái có quyền từ hôn (Điều 322). Người con trai cũng có quyền từ hôn nếu người con gái bị ác tật hay phạm tội. Đây là quan điểm tiến bộ của nhà lập pháp triều Lê cho phép người con gái có quyền từ hôn ngang bằng như con trai. Quy định này khác xa với pháp luật đời Đường chỉ quy định hình phạt cho bên nhà gái, cấm quyền từ hôn của người con gái, nếu người con gái vi phạm thì bị phạt 60 trượng.
Quyền lợi người phụ nữ còn được bảo vệ bằng cách QTHL cấm những hành vi cưỡng hôn, ép hôn: “Những nhà quyền thế mà ức hiếp để lấy con gái kẻ lương dân thì xử tội phạt, biếm hay đồ” (Điều 338). Những tôi tớ của công hầu, công chúa cậy quyền thế bắt ép lấy con gái nhà dân thì bị xử tội đồ, còn chủ nhà dung túng thì tội biếm tuỳ theo việc nặng hay nhẹ (Điều 336). Không những Điều 316 “Các quan ty ở trấn ngoài mà lấy đàn bà con gái ở trong hạt của mình thì xử phạt 70 trượng, biếm ba tư và bãi chức”. Những người cậy quyền thế cưỡng ép phụ nữ kết hôn đều bị pháp luật trừng trị nghiêm minh. Những biện pháp đưa ra để trừng trị đó mục đích là bảo vệ dân lành, tôn trọng nhân phẩm của người phụ nữ đồng thời ngăn ngừa sự lộng hành của tầng lớp quan lại, nhà giàu, có thế lực đe doạ đến quyền lực triều đình
Pháp luật triều Lê rất coi trọng việc đính hôn thể hiện sự trân trọng đề cao giá trị người phụ nữ. Điều 314 quy định: người con gái nhận đồ sính lễ của nhà trai thì đính hôn mới có hiệu lực, việc nhận đồ sính lễ đính hôn phải thực hiện trang trọng với sự có mặt của cha mẹ (người trưởng họ) của hai bên nam nữ. Trong khi đó pháp luật nhà Đường thì quy định việc đính hôn phải làm thành một văn thư phúc đáp lại hôn thư của nhà trai mới có giá trị pháp lý, việc nhận đồ sính lễ chỉ là thứ yếu. Điều này rõ ràng không phù hợp với phong tục tập quán của nước ta.
2, Bộ luật có những quy định ràng buộc trách nhiệm của người chồng đối vối gia đình, qua đó bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của người vợ.
Mặc dù thiên về quyền lợi pháp lý của người chồng với tư cách là gia trưởng song Quốc triều hình luật đã có nhiều quy định ràng buộc trách nhiệm của người chồng đối với gia đình, hạn chế quyền tuyệt đối định đoạt của người chồng đối với vợ trong một số trường hợp nhất định. Điều 308 Quốc triều hình luật quy định: Nếu người chồng lơ là không làm tròn bổn phận của người chồng đối với vợ trong thời gian 5 tháng (nếu đã có con thì là 1 năm) thì người vợ được quyền li hôn. Để bảo vệ quyền lợi của người vợ cả, pháp luật còn quy đinh: “...vì quá say đắm nàng hầu mà thờ ơ với vợ thì xử tội biếm (phải có người vợ thưa thì mới bắt tội)” (Điều 309). Đây là một quy định chỉ có trong Quốc triều hình luật mà chưa có trong cổ luật. Những quy định này đã ràng buộc người chồng phải có trách nhiệm với gia đình, đồng thời bảo vệ lợi ích chính đáng của người vợ.
Trong quan hệ vợ chồng, mặc dù giữ quyền gia trưởng, người chồng không được tuỳ tiện đánh đập, đối xử tàn bạo đối với vợ. Hành vi đánh vợ của người chồng vẫn bị xử lý theo pháp luật nhưng với mức phạt thấp hơn ba bậc so với các trường hợp phạm tội thông thường khác. Chồng có ý giết vợ thì chỉ được giảm tội một bậc. Chồng đánh chết vợ là bất mục - một trong mười tội nặng nhất trong xã hội phong kiến (Điều 48)
Quốc triều hình luật có những quy định về hình phạt đối với những người đàn ông khi có hành vi gian dâm hay thông gian. Đoạn 1 Điều 401 quy định: “Gian dâm với vợ người khác thì bị xử tội lưu hay tội chết; với vợ lẽ người khác thì bị giảm một bậc. Với người quyền quý thì sẽ xử cách khác; kẻ phạm tội đều phải nộp tiền tạ như Luật định”. Đối với hành vi thông gian, tức là hành vi ngoại tình đi lại với nhau chứ không phải là bắt được gian dâm nên cách xử lý có nhẹ hơn. Đây là biện pháp đáng để suy nghĩ và có thể tiếp thu trong việc xây dựng pháp luật nhằm loại trừ những hiện tượng ngoại tình và vi phạm chế độ một vợ một chồng còn tồn tại khá phổ biến hiện nay.
3, Người vợ có quyền yêu cầu li hôn theo quy định của pháp luật:
Điểm đặc sắc thể hiện ở việc thừa nhận quyền yêu cầu ly hôn của người vợ. Vấn đề này được thể hiện trong các Điều 423, 424, 425, 426 của Quốc triều hình luật.
Bên cạnh việc quy định các trường hợp chồng được rẫy vợ khi vợ phạm phải một trong bảy điều thất xuất như đã nêu ở trên, pháp luật triều Lê còn quy định ba trường hợp chồng không được bỏ vợ mặc dù vợ phạm phải một trong bảy điều thất xuất, đó là trường hợp “tam bất khứ”. Một là, người vợ để tang nhà chồng 3 năm; hai là, khi lấy nhau nghèo, về sau giàu có; ba là, khi lấy nhau có bà con, lúc bỏ nhau không còn bà con để trở về.
Song song với quyền li hôn của người chồng, Quốc triều hình luật cũng cho phép vợ có quyền yêu cầu li hôn. Đây điểm tiến bộ của QTHL mà các văn bản cổ luật khác không có.
Người vợ có quyền yêu cầu li hôn trong hai trường hợp sau:
Trong trường hợp người chồng không chăm nom, bỏ lửng vợ trong vòng 5 tháng không đi lại, vợ được trình với quan sở tại và xã quan làm chứng thì mất vợ (Điều 308). Tương tự như vậy, bộ luật Gia Long cũng cho phép người vợ được li hôn khi người chồng bỏ phế họ nhưng thời gian người chồng không đi lại với vợ phải là 3 năm. Như vậy, bộ luật nhà Nguyễn là sự thụt lùi trong việc bảo vệ quyền lợi của người vợ.
Theo Điều 333 thì: “Nếu con rể lấy chuyện phi lí mà mắng nhiếc cha mẹ vợ, đem việc thưa qua sẽ cho li dị”. Con rể mắng nhiếc cha mẹ vợ bị coi là bất hiếu nên người vợ có quyền thể hiện thái độ của mình bằng việc yêu cầu li hôn.
Quy định về quyền li hôn hôn của người vợ là điểm độc đáo của pháp luật nhà Lê: “Quy định này không có trong bất kì bộ Luật nào của Trung Quốc, nó chứng minh địa vị tương đối bình đẳng giữa vợ và chồng trong gia đình Việt Nam”.
Pháp luật cũng bảo vệ quyền của người vợ sau khi li hôn. Điều 308 QTHL quy đinh: “...Nếu đã bỏ vợ mà lại ngăn cản người khác lấy vợ cũ thì phải tội biếm”.
Câu 22: Chế độ tài sản giữa vợ và chồng trong bộ Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ.
A. Trong QTHL
Trong suốt 360 năm dài tồn tại, triều đại nhà Lê đã để lại cho hậu thế những thành tựu to lớn trên lĩnh vực pháp luật và điển chế. Trong số các thành tựu đó phải kể đến Quốc triều hình luật – Bộ luật quan trọng, chính thống nhất của Triều Lê. Quốc triều hình luật cũng chính là bộ luật cổ xưa nhất mà chúng ta còn lưu giữ được đầy đủ cho đến ngày nay. Mặc dù chịu ảnh hưởng sâu sắc của triết lí Nho giáo – hệ tư tưởng thống trị trong xã hội thời Lê cũng như ảnh hưởng của các bộ luật Trung Quốc (luật nhà Đường, luật nhà Minh) nhưng nhà làm luật thời Lê đã biết tiếp thu có chọn lọc, sáng tạo pháp luật Trung Quốc đồng thời kết hợp với các phong tục, tập quán đặc thù của xã hội Việt Nam, hòa nhập chúng với hệ thống pháp luật, tạo nên nét riêng biệt độc đáo của bộ luật. Trong đó phải kể đến chế độ tài sản giữa vợ và chồng trong thời kỳ hôn nhân – một chế định đặc sắc được quy định quy định tương đối cụ thể thể hiện gián tiếp thông qua các điều 374, 375, 376 ở chương Điền sản.
Theo như các quy định tại các điều 374, 375, 376 thì tài sản vợ chồng bao gồm tài sản riêng của mỗi người được thừa kế từ gia đình và tái sản chung vợ chồng cùng làm ra trong thời kỳ hôn nhân. Sự quy định rõ thành phần khối tài sản chung, riêng rõ ràng của vợ chồng là điểm rất tiến bộ và độc đáo của pháp luật nhà Lê và nó vẫn được tiếp thu trong việc xây dựng pháp luật hiện nay. Phản ánh một cách khá trung thực và điều chỉnh một cách hợp lí mối quan hệ giữa vợ và chồng phù hợp với thực tế xã hội Việt Nam, địa vị pháp lí của người vợ được cải thiện hơn hẳn so với các quan niệm Nho giáo qua việc thừa nhận quyền bình đẳng về tài sản giữa vợ và chồng.
Lần đầu tiên, pháp luật công nhận công nhận công lao đóng góp vào vào việc tạo ra tài sản chung của vợ chồng (tài sản vợ chồng làm ra trong thời gian hôn nhân) từ đó công nhận quyền sở hữu của người vợ đối với một nửa tài sản hai vợ chồng làm ra thể hiện qua các quy định tại điều 374: “…Nếu điền sản là của chồng và vợ trước làm ra thì chia làm hai phần, vợ trước và chồng mỗi người một phần, phần của vợ trước thì để riêng cho con, còn phần chồng lại chia như trước. Nếu điền sản là của chồng và vợ sau làm ra, thì cũng chia làm hai phần, chồng và vợ sau mỗi người một phần, phần của chồng thì chia như trước, còn phần của vợ sau thì được nhận làm của riêng…”(1) và điều 375: “…còn điền sản của vợ chồng lẩm thì chia làm hai, vợ chồng mỗi người được một phần; phần của vợ được nhận làm của riêng…”(2). Việc chia đôi khối tài sản chung chứng tỏ rằng sự đóng góp của người vợ vào khối tài sản chung là ngang bằng với người chồng. Sự bình đẳng đó còn thể hiện ở quyền định đoạt tài sản chung. Việc đứng tên đồng chủ thể trong khối tài sản chung là cơ sở để tạo ra các năng lực pháp lý dân sự của người phụ nữ. Pháp luật đòi hỏi phải có sự đồng ý của cả hai vợ chồng trong việc chuyển nhượng tài sản chung cho người khác. “Điều đó được minh chứng qua các bằng chứng là các văn tự bán tài sản có chữ ký của cả vợ chồng hoặc các tờ mẫu văn tự về bán, câm cố, trao đổi các tài sản thực thụ và các điền nô ở thời nhà Lê bao giờ cũng đòi hỏi sự thỏa thuận của cả hai vợ chồng”(1).
Ta thấy rằng pháp luật triều Lê đã có quy định bảo vệ cho quyền lợi của người phụ nữ rất tiến bộ và gần với pháp luật hiện đại – Điều chưa từng có trong pháp luật phong kiến Việt Nam thời Lý – Trần trước đó cũng như triều Nguyễn sau này và cũng không có trong pháp luật phong kiến Trung Quốc mà đặc biệt là nhà Đường là triều đại thịnh trị nhất của Trung Quốc trong lịch sử. Phải thấy được rằng Quốc triều hình luật đã phản ánh một nét tư duy tân kỳ mới lạ chưa từng có trong lịch sử. Vậy tại sao mà một triều đại phong kiến chịu ảnh hưởng rất nhiều của phong kiến Trung Quốc với tư tưởng Nho giáo là chủ đạo lại có thể có những nét sáng tạo độc đáo và tân tiến đến vậy – Điều mà các nhà lập pháp phong kiến phương Đông cũng như phương Tây chưa bao giờ đạt tới được? Đây là một vấn đề thu hút các nhà nghiên cứu lịch sử, văn hóa cũng như các nhà nghiên cứu pháp luật.
Thứ nhất, gia đình của người Việt là một nhân tố quan trọng quyết định. Nếu như ở Trung Quốc tồn tại các gia đình đa thế hệ với những dòng họ lớn mà quyền quyết định các việc trọng đại trong gia đình đều đặt trong tay người gia trưởng (thường là trưởng tộc hay người chồng, người cha trong gia đình), vợ chồng trẻ tuổi thường bị phụ thuộc thì ở Việt Nam trên nguyên tắc xây dựng những gia đình lớn nhưng chủ yếu là gia đình nhỏ (3 thế hệ: vợ chồng, các con, cha mẹ), hay gia đình hạt nhân chỉ gồm 2 thế hệ. Do vậy, trong gia đình truyền thống Việt Nam vợ chồng có thể độc lập quyết định những công việc quan trọng như các vấn đề phát sinh trong các quan hệ xã hội hàng ngày hay những vấn đề cần giải quyết bằng tiền bạc. Lúc này vợ chồng cùng đứng ra bàn bạc, cùng giải quyết. Trên cơ sở tôn trọng các tập quán đó của người Việt, pháp luật đã có những quy định thể hiện quyền của người vợ mà quan trọng nhất là quyền quyết định đối với tài sản chung của gia đình.
Thứ hai, chiến tranh cũng đóng vai trò đáng kể tác động đến việc điều chỉnh của pháp luật. Nước Việt ta là một nước nhỏ, thường xuyên phải đối mặt với các cuộc chiến tranh xâm lược từ các thế lực thù địch bên ngoài, đặc biệt là một nước lớn như Trung Quốc vấn thường xuyên dòm ngó mảnh đất Đại Việt màu mỡ. Do vậy, đàn ông phải đi lính bảo vệ đất nước. Số người chết, thương vong không phải là ít. Trong khi đó, chỉ còn phụ nữ, trẻ em và người già ở lại nhà chăm lo việc sản xuất cung cấp lương thảo gửi ra chiến trường đồng thời chăm lo cuộc sống gia đình. Vai trò của người phụ nữ Việt Nam thời kỳ này thật không nhỏ. Thấy được những điều đó, pháp luật triều Lê đã rất công bằng khi thừa nhận vai trò của người phụ nữ trong tài sản chung của gia đình mà có lẽ phần nhiều do họ làm ra.
Bên cạnh đó, pháp luật cũng quy định quyền sở hữu và định đoạt đối với tài sản riêng thể hiện tại điều 376: “vợ chồng đã có con, nếu một người chết trước sau đó con cũng lại chết thì điền sản thuộc về chồng hay vợ…”, nếu vợ chết trước thì “điền sản của vợ chia làm ba, để cho chồng hai phần, cho người họ (người thừa tự) một phần. Cha mẹ còn sống thì chia làm hai, thuộc về cha mẹ một phần, thuộc về chồng một phần, phần của vợ chỉ để nuôi một đời, không được nhận làm của riêng, chồng chết thì phần ấy thuộc về cha mẹ hay người thừa tự. Chồng chết trước thì vợ cũng thế, cải giá thì phải trả lại”.(1) Tài sản riêng của vợ chồng là những tài sản của mỗi bên vợ chồng có trước khi kết hôn, do được thừa kế từ gia đình mỗi người. Đối với những tài sản này, vợ, chồng đều có quyền sở hữu riêng rẽ, mặc dù những tài sản này được quản lí chung bởi vợ chồng và các lợi tức của nó là tài sản chung. Những tài sản này chỉ gộp vào để quản lí chung trong thời kỳ hôn nhân. Người chồng không có quyền chiếm dụng tài sản mà vợ thừa kế từ dòng họ mình và ngược lại.
Sự thừa nhận quyền sở hữu tài sản riêng là một điểm tiến bộ của Quốc triều hình luật mà ta không thể tìm thấy trong pháp luật phong kiến Trung Quốc. Có sự khác biệt đó là do ở Trung Quốc con gái không có quyền thừa kế tài sản mà chỉ có của hồi môn khi đi lấy chồng còn ở Việt Nam thì quyền thừa kế của con tai và con gái là như nhau, thậm chí con gái có thể thừa kế hương hỏa. Để đảm bảo tài sản hương hỏa không bị chuyển giao cho dòng họ khác kho con gái đi lấy chồng, cách tốt nhất là thừa nhận quyền sở hữu đối với tài sản riêng của người vợ. Điều này hoàn toàn phù hợp với phong tục tập quán Việt Nam là tài sản hương hỏa chỉ dùng để thờ cúng tổ tiên nên không thể giao cho người khác họ.
Ở thế kỷ 15 mà nhà lập pháp nước ta đã có tư duy pháp lý thật hợp tình, hợp lý, phù hợp với đạo đức của chế độ phong kiến thời bấy giờ. Theo Vũ Văn Mẫu thì “các tòa án ở Nam việt thường hay căn cứ vào các điều này để phân xử các vụ kiện liên quan đến tài sản của vợ chồng”. Tuy nhiên ta vẫn nhận thấy điểm hạn chế là Quốc triều hình luật đã không quy định cụ thể  về quyền và nghĩa vụ về tài sản giữa vợ và chồng. Do sự ảnh hưởng của chế độ gia đình phụ quyền và yếu tố gia đình gia trưởng của Nho giáo và tập quán mà người vợ không có toàn quyền định đoạt tài sản trong gia đình. Trong các giao dịch dân sự người vợ chỉ đứng tên cùng với chồng mà thôi. Việc định đoạt vấn chủ yếu do người chồng, người vợ chỉ được toàn quyền định đoạt khi có sự cho phép của chồng. Pháp luật không can thiệp, vì vậy không có cơ sở để giải quyết tranh chấp. Do đó khi cần thiết phải điều chỉnh bằng các chỉ dụ riêng lẻ, không có tính hệ thống và tính pháp điển hóa cao.
Mặc dù còn tồn tại nhiều hạn chế nhưng việc nhà Lê đã bắt đầu nhận thấy vai trò lớn lao của người phụ nữ trong sản xuất và trong cuộc sống thể hiện trong pháp luật là tấm gương cho việc học tập, nghiên cứu và xây dựng hệ thống pháp luật nước ta hiện nay. Đảm bảo các quyền sở hữu tài sản của người phụ nữ trong hôn nhân và suy rộng ra là đảm bảo các quyền lợi ích của người phụ nữ là yếu tố quan trọng quyết định tính dân chủ, bình đẳng trong xã hội. Uy tín, tinh thần những điều khoản luật Hồng Đức vẫn còn sống mãi trong dân gian. Tuy rằng bộ luật nhà Nguyễn ảnh hưởng sâu đậm ở luật nhà Thanh, nhưng thực tế cho thấy ở xã hội Việt Nam từ thời Lê cho đến về sau này, địa vị người phụ nữ vẫn được bảo vệ, như quyền thừa kế, quyền thờ cúng ông bà với tư cách người vợ, người con gái trong gia đình. Người phụ nữ Việt Nam vẫn luôn luôn giữ được quyền bình đẳng đối với nam giới, tuy nhiều khi không được chính thức. Những quy định tương đối tiến bộ, công nhận cho người phụ nữ trong xã hội phong kiến quyền định đoạt đối với tài sản của mình trong gia đình của bộ luật đã phần nào bảo vệ người phụ nữ trước thái độ “trọng nam khinh nữ”... tiền đề cho việc bảo đảm các quyền lợi của người phụ nữ trước đây và cả sau này nữa.

Câu 23: Quan hệ thừa kế tài sản giữa cha mẹ và các con trong bộ Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ. (trong đề cương 2 trang 19)
Câu 24: Chế định hợp đồng trong bộ Quốc triều hình luật và Hoàng Việt luật lệ. (trong đề cương 2 trang 19)
Câu 25: Pháp luật phong kiến Việt Nam kết hợp yếu tố Trung Quốc và Đại Việt. (đề cương 2 trang 27)
SO SÁNH THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC LƯỠNG ĐẦU THỜI TRẦN, HỒ, MẠC

VỚI THỂ CHẾ NHÀ NƯỚC LƯỠNG ĐẦU LÊ-TRỊNH Ở ĐÀNG NGOÀI

Lời mở đầu


Thể chế lưỡng đầu là một nét đặc sắc trong lịch sử các triều đại phong kiến Việt Nam. Nó được duy trì trong một thời gian tương đối dài, trải qua nhiều triều đại, khởi đầu từ triều Trần, trải qua các triều đại Hồ, Mạc và cuối cùng là thể chế lưỡng đầu Lê-Trịnh ở Đàng Ngoài. Trong quá trình phát triển đó, thể chế lưỡng đầu dần được phát triển với một quy mô tổ chức càng mở rộng và cơ cấu tổ chức ngày càng chặt chẽ. Mặc dù có sự biến đổi qua các triều đại, song ta có thể chia thể chế lưỡng đầu ở Việt Nam thành hai kiểu: thể chế lưỡng đầu thời Trần, Hồ, Mạc và thể chế lưỡng đầu Lê-Trịnh. Hai kiểu thể chế lưỡng đầu này có sự khác nhau cơ bản về nhiều yếu tố cấu thành thể chế đó.
Có rất nhiều khái niệm về thể chế nhà nước dưới các góc độ khác nhau. Xem xét dưới góc độ lịch sử nhà nước và pháp luật có thể hiểu rằng:
- Thể chế nhà nước (còn gọi là thiết chế) là toàn bộ cơ cấu xã hội do pháp luật quy định.
- Thể chế lưỡng đầu là chế độ chính trị trong đó có hai người cùng nắm quyền cai trị đất nước.

A. Những điểm giống nhau:
1. Nhà nước có hai người đứng đầu, cùng điều hành đất nước
Dưới thời Trần, Hồ, Mạc thì hai người đứng đầu nhà nước phong kiến là Thượng hoàng và Hoàng đế (Vua). Đây được xem như là hai vị vua cùng điều hành đất nước trên cơ sở Vua cha nhường ngôi cho con để làm Thượng hoàng nhưng vẫn nắm một số quyền tối cao như quyền giám sát đối với việc trị nước của vua con, thái tử lên ngôi vua và cai trị đất nước dưới sự hướng dẫn, chỉ dạy và giám sát của vua cha.
Thời Lê-Trịnh, hai người đứng đầu là Vua Lê và Chúa Trịnh. Mặc dù về danh phận thì Chúa là người giúp việc cho vua nhưng thực tế công việc điều hành đất nước là do cả vua và chúa cùng phối hợp thực hiện. Thậm chí có những công việc như tổng chỉ huy quân đội, vua Lê giao phó cho Chúa có toàn quyền quyết định mà không cần thông qua nhà vua.

2. Thể chế lưỡng đầu là kết quả của quá trình liên kết lực lượng nhằm duy trì sự ổn định của đất nước.
Dưới thời Trần, Hồ, Mạc, mối liên kết này thể hiện sự đồng lòng nhất trí trong dòng họ trị vì đất nước nhằm giữ vững ngôi vua và tập hợp lực lượng chống ngoại xâm. Nhà Trần, Hồ, Mạc đều đặt việc củng cố ngôi vua và sớm ổn định đất nước lên hàng đầu là do các triều đại này có được ngôi vị bằng con đường phế bỏ triều đại trước và tự lập làm vua. Việc dòng họ của vua đồng lòng để người kế vị sớm lên ngôi hoàng đế chính là nhắm đến việc ngăn chặn những ý định tranh giành ngôi vua và giúp cho vua con học cách điều hành đất nước dưới sự chỉ bảo của vua cha (người thực chất nắm quyền tối cao). Ngoài ra còn phải kể yếu tố tác động từ mối đe doạ xâm lược của phong kiến phương Bắc. Sự phối hợp điều hành đất nước giữa vua và Thượng Hoàng trong hoàn cảnh chiến tranh sẽ giúp công việc thuận lợi hơn và việc hai vua cầm quân chỉ huy đã góp phần động viên tinh thần quân dân đồng lòng chống giặc. Việt Nam sử lược đã ghi nhận vấn đề này dưới thời Trần như sau: “vua tôi hòa hợp, lòng người như một, nhân tài lũ lượt kéo ra” khiến cho “quân nhà Nguyên thua tan nát là sự tất nhiên vậy”.
Thời Lê-Trịnh, nguyên nhân chủ yếu là sự suy yếu của nhà Lê khiến cho cuộc chiến giành quyền lực giữa các phe phái phong kiến diễn ra quyết liệt, đất nước bị chia cắt. Họ Trịnh nổi lên là một thế lực mạnh và việc liên kết giữa Vua Lê với Chúa Trịnh đã tập hợp được lòng dân cùng hướng về vua Lê, qua đó dần dẹp yên được các cuộc tranh đoạt quyền lực, duy trì sự ổn định của đất nước, không để đất nước rơi vào vòng xoáy tranh giành quyền lực để rồi cuối cùng bị ngoại bang nô dịch như giai đoạn cuối Trần-đầu Hồ.

B. Những điểm khác biệt:
1. Mối quan hệ giữa hai người đứng đầu Nhà nước.
Các triều đại Trần, Hồ, Mạc đều là thể chế lưỡng đầu cùng dòng họ, được hình thành chủ yếu trên cơ sở mối quan hệ cha – con (một số ít trường hợp là anh – em), cùng hoà hợp quyền lực. Địa vị của hai vua được coi là không phụ thuộc vào nhau, mặc dù vua con hầu hết đều nghe theo hướng dẫn chỉ bảo của vua cha. Vua cha giúp đỡ vua con trong việc trị nước vì mục tiêu giữ gìn ngôi vị cho dòng họ, không có sự mâu thuẫn quyền lực giữa hai người đứng đầu đất nước. Nếu như vua cha không hài lòng với vua con thì dường như cũng chỉ như một người cha khiển trách con. Hãn hữu chỉ có duy nhất trường hợp Thượng hoàng Trần Nghệ Tông phế truất vua Trần Phế Đề mà lập Thuận Tông lên thay.
Nhưng chính quyền Lê-Trịnh lại là thể chế lưỡng đầu của hai dòng họ là nhà Lê và họ Trịnh. Vua Lê và chúa Trịnh kết hợp với nhau trong sự đối trọng, vừa hoà hợp lại vừa mâu thuẫn. Họ Trịnh nắm hầu hết quyền bính trong tay nhưng vẫn phải dựa vào danh nghĩa vua Lê để sai khiến các quan. Nhà Lê muốn duy trì ngôi vị thì phải dựa vào binh quyền của Chúa Trịnh. Cả vua và chúa đều phải dựa vào nhau để tồn tại và cai trị đất nước, như câu ca dân gian về mối quan hệ đặc biệt Vua Lê-Chúa Trịnh này:
Lê tồn Trịnh tại

Lê bại Trịnh vong



Nhưng bên cạnh đó là sự mâu thuẫn về quyền lực giữa đế quyền của vua và vương quyền của chúa. Năm 1599 Trịnh Tùng buộc vua Lê phải phong cho mình là Đô Nguyên soái Tổng Quốc chính Thượng phụ Bình An vương. Trước đó tước vương chỉ được vua Lê phong cho con cháu trong tôn thất; nay lại phải phá lệ phong cho Trịnh Tùng, cho phép con cháu họ Trịnh được thế tập tước của cha. Đặc biệt chúa Trịnh còn được đặt tên thụy và miếu hiệu cho chúa đời trước, một việc làm thể hiện uy quyền mà xưa nay chỉ nhà vua mới có quyền. Họ Trịnh luôn luôn tìm cách củng cố, tăng cường quyền lực của mình, hạn chế quyền lực của nhà vua đến mức thấp nhất có thể. Khi mâu thuẫn lên đến cao trào, chúa Trịnh còn dựa vào binh quyền của mình để phế lập các Thái tử, thậm chí cả việc phế vua cũ lập vua mới. Không kể đời chúa Trịnh đầu tiên là Trịnh Kiểm còn phải đánh nhau với nhà Mạc và đời chúa cuối cùng là Trịnh Bồng bị lật đổ, chín đời chúa còn lại thì có đến năm lần các chúa Trịnh quyết định việc phế lập vua hoặc phế lập thái tử. Các vua Lê thời này dường như chỉ là những con rối trong tay chúa Trịnh mà thôi.

2. Cơ cấu tổ chức của thể chế lưỡng đầu
Thể chế lưỡng đầu thời Trần, Hồ, Mạc được hình thành là do vua cha tự nguyện sớm truyền ngôi cho con nhằm mục đích duy trì sự ổn định của đất nước. Sự tự nguyện này chỉ là một truyền thống, một tập quán chính trị được duy trì nhờ nó đã phát huy hiệu quả trong hoàn cảnh lịch sử lúc đó. Tuy nhiên, vì chỉ là một tập quán nên nó có thể bị thay đổi và bị loại bỏ. Thời gian ở ngôi Hoàng đế của mỗi vị vua trước khi làm Thượng hoàng không cố định và có khi ngắn hơn thời gian làm Thượng hoàng. Đôi khi có giai đoạn thể chế lưỡng đầu bị cách quãng do không có Thượng hoàng mà chỉ có 1 người đứng đầu duy nhất là vua. Riêng thời Mạc chỉ có vị vua đầu tiên là sớm nhường ngôi cho con để hình thành thể chế lưỡng đầu, các vị vua sau của nhà Mạc đã bỏ không theo tập quán này.
Ngược lại, thể chế lưỡng đầu Lê-Trịnh đã từng bước được luật pháp hoá để trở thành nền tảng pháp lý vững chắc cho sự tồn tại lâu dài và liên tục của nó. Chúa Trịnh là người nắm quyền thực sự trong tay và quyền này được chính thức thừa nhận trong các văn bản của vua Lê, khởi đầu là Sách văn phong với nội dung Vua Lê uỷ quyền chính thức cho Chú Trịnh trong việc cái quản đất nước. Ngoài ra điều này luôn được nhắc đến trong các chiếu lên ngôi của các vua Lê. Ở đó không chỉ nói tới đức độ của các tiên đế mà còn ca ngợi nghiệp trung hưng xã tắc của các tiên vương họ Trịnh, để rồi kết luận: việc trị quốc an dân vua hoàn toàn nhờ cậy Trịnh vương trông coi.
Thể chế lưỡng đầu thời Trần, Hồ, Mạc chỉ được thể hiện qua hai cá nhân đứng đầu nhà nước là Thượng hoàng và Vua. Qua công việc hoạt động của 2 người đứng đầu mà thể chế lưỡng đầu được xác lập. Tuy nhiên chỉ có một cơ cấu tổ chức quan lại duy nhất từ trung ương đến địa phương. Tất cả các cơ quan này cùng giúp việc cho cả Thượng hoàng và Hoàng đế.
Ngược lại, thể chế lưỡng đầu Lê-Trịnh không chỉ thể hiện giữa Vua và chúa mà còn được thể hiện ở các cơ quan trong bộ máy nhà nước. Bắt đầu từ năm 1599, chúa Trịnh Tùng cho lập phủ chúa và các chức quan giúp việc trong phủ. Dần dần các cơ quan giúp việc ở phủ chúa được mở rộng, từ Tam Phiên lên thành Lục Phiên, mỗi Phiên có chức năng và nhiệm vụ tương tự với từng Bộ trong Lục Bộ của triều đình. Như vậy nếu như trước đây các công việc của Bộ nào chỉ do Bộ đó quản lý, đến thời kỳ này được chia ra cho cả Bộ và Phiên tương ứng cùng phụ trách. Đến năm 1751, chúa Trịnh Doanh buộc vua Lê Hiển Tông ban hành sắc dụHiệu đính quan chế. Đến lúc này sự tồn tại của Lục Phiên, với tư cách một cơ quan hoạt động song song với Lục Bộ, đã được chính thức thừa nhận trong một văn bản có tính pháp lý cao nhất của nhà vua.
3. Sự phân định quyền hạn giữa hai người đứng đầu nhà nước và các cơ quan giúp việc có liên quan.
a. Sự tập trung quyền hạn cao độ vào tay một người
Trong thời kỳ Trần, Hồ, Mạc địa vị của hai vua được xem là ngang nhau, giữa hai vua không có quy định pháp luật bắt buộc phải tuân thủ mệnh lệnh của nhau. Tuy nhiên, vua con thường nghe theo hướng dẫn của vua cha giống như một người con chịu sự giáo dục của người cha. Mặt khác, cũng không có sự phân định quyền hạn riêng rẽ giữa Thượng hoàng và Vua. Cả hai vua đều có quyền lực trên mọi lĩnh vực của đất nước, tuy nhiên vua thường không ra mệnh lệnh trái với lệnh của Thượng hoàng và ngược lại.
Trái lại, sự phân định quyền hạn giữa vua Lê và Chúa Trịnh trở thành một đặc điểm quan trọng và chi phối tất cả các đặc điểm khác của thể chế lưỡng đầu này Đặc điểm này được thể hiện rất rõ qua vai trò, địa vị, quyền lực của vua và chúa, của Lục Bộ và Lục Phiên như sau:
Trên danh nghĩa pháp lý, chỉ có vua Lê mới được coi là vị vua độc tôn duy nhất trên toàn cõi Đại Việt và chỉ có vua Lê mới có niên hiệu, còn Trịnh vương chỉ là bầy tôi nhưng là bầy tôi vượt trên tất cả các bầy tôi khác. Quyền lực của chúa tuy được coi là phái sinh từ đế quyền của vua song thực tế lại lấn át hết cả quyền của vua, bao trùm lên hầu hết mọi lĩnh vực: lập pháp, hành pháp, tư pháp, tài chính thuế khoá, quân sự…
- Về lập pháp: không chỉ vua Lê mà cả chúa Trịnh cũng có quyền lập pháp.Trên danh nghĩa vua ban hành các văn bản có tính chất chung chung, còn chúa ban hành các văn bản mang tính tính ứng dụng nêu rõ những trường hợp, đối tượng và công việc áp dụng. Tuy nhiên sự phân định này cũng không rõ ràng, trên thực tế hầu hết các dụ, sắc dụ, hay chỉ, chiếu do vua ban hành đều do phủ chúa chuẩn bị và đưa sang; hoặc những việc xét bên điện vua đều phải chuyển sang phủ chúa để chúa cùng xét. Giáo sĩ người Pháp Marini khi kể lại những điều tai nghe mắt thấy của ông ta ở Đàng ngoài, đã viết: "Chúa ít sang chầu vua, có khi một tháng không chầu được một lần, nên vua Lê uỷ các quan triều sang phủ chúa để trình chúa những việc đã xét bên điện vua, và để chúa cùng quyết định…"
- Trong lĩnh vực hành pháp, vua Lê nắm quyền tuyển bổ, thăng, giáng, ban phẩm hàm cho các chức quan từ tam phẩm trở lên; những chức từ tứ phẩm trở xuống do chúa định đoạt. Về nghi thức, nhà vua là người ra sắc dụ hay chiếu chỉ phê chuẩn tất cả các quyết định, kể cả quyết định của chúa Trịnh. Nhưng trong thực tế, với chức Tổng quốc chính do vua Lê phong, chúa Trịnh tự mình tuyển bổ, thăng giáng, ra lệnh cho các quan mà không thông qua nhà vua. Ngay cả với các chức quan cao cấp thuộc quyền tuyển bổ, thăng giáng của nhà vua cũng không nằm ngoài vòng cương toả của chúa Trịnh. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục chép: năm 1664 đặt đủ chức Thượng thư trong Lục Bộ thì hai quan Tham tụng và Bồi tụng bên phủ chúa nắm giữ hai chức Thượng thư của Bộ Lại và Bộ Hộ. Như vậy có thể thấy việc bổ nhiệm hai chức quan Thượng thư này (thuộc quyền của vua) vào hai Bộ có chức năng và quyền hạn lớn nhất chịu ảnh hưởng khá lớn từ phủ chúa.
- Về tư pháp: Các vụ án đã được xét xử ở địa phương nhưng còn chống án thì Ngự sử đài của triều đình xét phúc thẩm. Nếu đương sự còn thấy oan ức thì có thể kêu sang phủ chúa – là cấp chung thẩm. Như vậy, về tư pháp, chúa Trịnh mới thực sự có quyền tài phán cao nhất, vua Lê chỉ có chức năng ban bố lệnh đại xá, đặc xá.
- Trong lĩnh vực quân sự: Với chức Đại nguyên soái, chúa Trịnh được vua Lê chính thức công nhận là người đứng đầu quân đội, là tổng chỉ huy quân đội, nắm toàn quyền về việc điều động tướng sĩ, ấn định chính sách quốc phòng. Hầu hết những mệnh lệnh liên quan đến công việc quốc phòng do Chỉ dụ của chúa ban hành. Chẳng hạn như Chỉ dụ nuôi nấng quân sĩ ban hành năm 1662, Chỉ dụ về việc thải lính ban hành năm 1666. Vua Lê chỉ đóng vai trò chủ toạ nghi lễ cho thêm phần trang trọng nhằm động viên tinh thần quân sĩ khi xuất trận hoặc phong tước cho các tướng tá.
- Về tài chính – thuế khoá: chúa Trịnh ngày càng nắm trọn quyền về tài chính, thuế khoá, vua Lê không còn chút quyền gì về phương diện này. Thậm chí chi tiêu của triều đình còn bị Phủ liêu kiểm soát. Chúa quy định cho vua Lê chỉ có 5000 quân túc vệ, 20 chiếc thuyền rồng, 7 thớt voi và được hưởng thuế của 1000 xã. Qua đây ta có thể thấy phạm vi quyền hạn của vua bị thu hẹp lại đến mức nào. Đâu còn là người đứng đầu thiên hạ với uy quyền tối cao: dưới gầm trời này đâu cũng là đất của vua, ai ai cũng là thần dân của vua; vậy mà thực tế chỉ nắm trong tay có 1000 xã. Vương quyền của chúa đã lấn át hết cả đế quyền của vua.
Tuy nhiên chúa Trịnh vẫn để vua nắm một số quyền mang nặng tính nghi lễ và không ảnh hưởng đến thực quyền của chúa như:
- Về ngoại giao, chỉ vua Lê mới có quyền tiếp sứ giả nước ngoài và đứng tên trong các văn thư ngoại giao. Và thực tế quyền hạn của vua cũng chỉ bó gọn trong mấy công việc mang tính nghi lễ, hình thức như vậy. Thực tế, chúa Trịnh mới là người quyết định chính sách ngoại giao và cử sứ thần ra nước ngoài.
- Trong lĩnh vực thần quyền: Vua Lê vẫn được coi là người đứng đầu bách thần trong cả nước, có toàn quyền phong sắc cho thần thánh, và là người duy nhất đứng ra làm chủ lễ tế đàn Nam Giao cáo tế trời đất cầu cho quốc thái dân an. Về phương diện này, chúa không can thiệp nhiều vào vai trò của vua, vì đây là lĩnh vực nhạy cảm trong đời sống tâm linh của quốc gia. Mặt khác nó không làm suy giảm quyền của chúa trong thực tế trị nước.
Qua đó, ta có thể thấy rằng chúa Trịnh nắm hầu hết quyền hành cai trị đất nước, còn vua Lê chỉ tồn tại trên danh nghĩa, rất ít quyền lực. Địa vị, chức, tước và quyền lực của chúa cũng được cha truyền con nối như sự thế tập ngôi báu hư vị của vua. Nó đã trở thành tập quán chính trị bền vững trong thời đó và ảnh hưởng lớn đến toàn bộ cơ cấu, thẩm quyền và mối quan hệ của các cơ quan phụ tá cho vua ở triều đình. Phan Huy Chú đã nhận xét: “Nhà Lê từ thời trung hưng về sau, chúa Trịnh chuyên giữ chính sự, quyền hành về hết phủ chúa, nhà vua chỉ mang hư danh ở trên, gọi là còn phận vị chỉ có khác ở màu áo mặc và nghi vệ mà thôi.”

b. Sự phân định về quyền hạn giữa các cơ quan giúp việc cho hai người đứng đầu.
Triều đình Trần, Hồ, Mạc hầu như chưa có cơ quan chuyên trách cụ thể trong nhiệm vụ giúp việc cho từng người đứng đầu. Người đang chịu sự sai khiến của vua con có thể được vua cha sai khiến.
Tuy nhiên, sang thời Lê-Trịnh, các cơ quan triều đình được tổ chức về cơ bản giống như thời Lê sơ. Còn các cơ quan bên phủ chúa có chức năng, quyền hạn gần giống với các cơ quan bên triều đình: Ngũ phủ Phủ Liêu, Lục Phiên…
Ngũ phủ và Phủ Liêu (hay phủ Chúa) gồm những chức không có phẩm tước định sẵn, do chúa chọn những người thân tín nhất, có quyền hạn cao nhất giúp chúa cai trị đất nước và đặt dưới sự điều khiển trực tiếp của Chúa. Quyền hạn của Ngũ phủ Phủ liêu thao túng toàn bộ quyền hạn của triều đình: Uốn nắn lòng vua, bàn phép trị dân, lựa chọn quan lại, thẩm xét…
Lục Bộ và Lục Phiên là cơ quan cơ bản của triều đình và của Phủ chúa. Chúng thể hiện rõ nhất sự phân định cơ cấu quyền hạn giữa hai bên. Hầu hết chức năng và nhiệm vụ của từng Bộ dần dần được chuyển giao sang Phiên tương ứng bên phủ chúa. Các vấn đề của đất nước được thực tế giải quyết tại Phủ chúa, đây có thể coi là triều đình thứ hai do chúa đứng đầu. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục viết:“Chính quyền trong nước về hết Lục Phiên, còn Lục Bộ, Lục tự chỉ đặt cho đủ vị mà thôi.”
Đa số các Phiên nắm quyền trên phạm vi cả nước, các Bộ của vua chỉ có tác động trong phạm vi triều đình và tới các quan lại chịu đặc ân của vua mà thôi. Tuy nhiên, riêng Bộ Lễ và Bộ Hình, nhà Chúa vẫn để cho giữ một số nhiệm vụ có tính biểu trưng cho quyền uy của vua nhằm phô trương đế quyền để che mắt thần dân và ngoại quốc. Bộ Lễ vẫn chủ trì các buổi lễ nghi, tế tự trong triều đình và trên cả nước. Bộ Hình được chúa dùng để nhân danh nhà vua ban bố luật pháp về lĩnh vực hình sự nhằm khiến cho dân chúng phục tùng.
Lục Bộ đã vậy, các chức quan còn lại trong triều đình cũng không khác gì. Các quan đứng đầu Lục Phiên đồng thời cũng là người nắm quyền cao nhất ở Lục Bộ. Khâm định Việt sử Thông giám Cương mục chép: công việc then chốt trong triều đình đều về tay gia thần ở Lục Phiên, mà danh vị quan ở triều đình thường dùng những viên quan trong Phủ liêu để kiêm lãnh, còn chức quan đều đặt có ngạch suông cho đủ vị mà thôi. Đến như Thượng thư, Thị lang nếu không theo về bên phủ chúa thì chỉ là các danh vị hão thì huống gì các chức quan khác, đều là chức quan nhàn tản, không giữ công việc theo với chức phận.
Ở chính quyền địa phương, trên danh nghĩa, phụ thuộc vào cả vua và chúa nhưng thực tế, do chúa có quyền tuyển bổ, thăng giáng quan lại từ tứ phẩm trở xuống nên các quan và chính quyền địa phương hầu như chỉ chịu sự sai khiến của chúa.
Nhờ có sự phân định quyền hạn rõ ràng mà các cơ quan trong bộ máy nhà nước ở cả triều đình và phủ chúa có sự phối hợp hoạt động chặt chẽ, đảm bảo hoàn tất công việc một cách hiệu quả. Lịch triều tạp kỷ chép:"...trong khoảng 1680 đến 1729, nhất là dưới thời hai chúa Trịnh Tùng và Trịnh Cương, kỷ cương được chấn hưng, thưởng phạt thì nghiêm túc mà công minh, trăm quan kính giữ phép tắc chế độ, nhân dân được yên nghiệp làm ăn." Đây chính là nguyên nhân khiến cho chế độ lưỡng đầu Lê-Trịnh tồn tại được trong suốt gần hai thế kỷ trong lịch sử.
Có thể nói quyền lực của chúa Trịnh là rất lớn, đối với nhà Lê thì chúa không lấy nước mà như lấy nước, không làm vua mà lại hơn vua; và có thể tóm tắt quyền hạn và địa vị của chúa Trịnh như câu ca dân gian:
Phi Đế, phi Bá
Quyền khuynh thiên hạ

4. Các chức quan và các cơ quan

Các triều đại Trần, Hồ, Mạc thường chỉ có hai ban là văn ban và võ ban, đến thời này, do chúa Trịnh tin dùng các hoạn quan, nên lập thêm giám ban, và gọi những người này là tín thần. Cách tổ chức quan lại dưới thời Trần, Hồ, Mạc còn khá đơn giản và số lượng chức quan còn ít. Song đến thời Lê-Trịnh, tổ chức bộ máy quan lại đã phát triển cực kỳ đồ sộ. Ngoài những chức quan theo hệ thống phẩm hàm thông thường, chúa Trịnh còn đặt thêm nhiều chức quan mới mà chỉ có bên phủ chúa như: Tham tụng, Bồi tụng, Chưởng phủ sự, Thự phủ sự…
Không chỉ có các chức quan, các cơ quan mới chỉ có bên phủ chúa cũng lần đầu tiên xuất hiện như: Ngũ phủ, Phủ liêu, Lục Phiên…
Lời kết
Như vậy, qua việc nghiên cứu các thể chế lưỡng đầu trong lịch sử phong kiến Việt Nam, chúng ta có thể thấy rõ sự giống nhau và khác nhau của thể chế lưỡng đầu thời Trần, Hồ, Mạc so với thể chế Lê-Trịnh ở Đàng. Có thể nói thiết chế lưỡng đầu là một nét chính trị đặc sắc của Việt Nam ta thời phong kiến. Có lẽ hiếm có ở nơi đâu mà thể chế lưỡng đầu tồn tại lâu dài và từng bước phát triển hoàn thiện lên đến đỉnh cao ở thể chế Lê-Trịnh như ở Việt Nam. Nó là sản phẩm phù hợp với bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, góp phần duy trì nền độc lập tự chủ và đưa nước Đại Việt xưa lên sánh ngang tầm với các triều đại phong kiến phương Bắc như Nguyễn Trãi đã viết:
Như nước Đại Việt ta từ trước
Vốn xưng nền văn hiến đã lâu
Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần
Bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên


Mỗi bên hùng cứ một phương…

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét